Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn
Nghĩa
淨土大經解演義
Phần 45
Chủ giảng:
Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt:
Huệ Trang và Đức Phong
Tập 89
“Tôn giả Xá Lợi Phất, Phạn
ngữ Xá Lợi, dịch vi Thu Lộ. Phạn ngữ Phất,
dịch vi Tử, cố viết Thu Tử, nhân mẫu đắc
danh” (“Tôn giả Xá Lợi
Phất”: Chữ Xá Lợi trong tiếng Phạn là chim
Thu Lộ, Phất (Putra) trong tiếng Phạn được
dịch là Tử (con). Do vậy, tên Ngài được dịch
là Thu Tử, do mẹ mà có tên ấy). Trước hết,
giới thiệu tôn giả Xá Lợi Phất. Trong Phật
pháp, ngài Xá Lợi Phất tượng trưng trí huệ bậc
nhất, trong các kinh Đại, Tiểu Thừa thường
thấy nhắc đến Ngài. [Hai vị đại đệ
tử thường được nhắc đến nhiều
nhất là] Xá Lợi Phất và Đại Mục Kiền
Liên, Đại Mục Kiền Liên tượng trưng thần
thông bậc nhất. Trong hết thảy các kinh do đức
Phật đă nói đều có trí huệ, đều có thần
thông, “thần thông” là thông đạt, hiểu rơ. Xá Lợi
(Śāri)
là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Thu Lộ,
là tên một loài chim, người Hoa gọi [loài chim ấy]
là Lộ Tư (鷺鷥).
Chữ Phất (Putra) trong tiếng Phạn dịch sang
nghĩa tiếng Hán là Tử; v́ thế, danh hiệu Xá Lợi
Phất dịch sang nghĩa tiếng Hán là Thu Tử, tức
là con bà Thu Lộ, “nhân mẫu
đắc danh” (do mẹ mà có tên ấy). “Kỳ mẫu thân h́nh đoan chánh, nhăn tịnh như
Thu Lộ, năi danh Thu Tử” (Bà mẹ Ngài thân h́nh đoan
chánh, mắt trong trẻo như mắt chim Thu Lộ, nên
Ngài có tên là Thu Tử). Nêu ra nguyên do Ngài mang tên ấy, mẹ
Ngài vô cùng xinh đẹp, vô cùng đoan chánh, trang nghiêm, đặc
biệt là tṛng mắt vô cùng trong sáng giống như [mắt]
chim Thu Lộ, nên người ta gọi bà là Thu Lộ và con
bà được gọi là Thu Tử. “Vị thị Thu Lộ chi tử. Hựu danh Châu Tử,
diệc biểu kỳ mẫu nhăn tịnh như châu. Hựu
danh Thân Tử, biểu mẫu thân đoan chánh” (Ư nói Ngài
là con bà Thu Lộ. Ngài lại c̣n được gọi là
Châu Tử, cũng là ư nói mắt mẹ Ngài trong trẻo
như hạt châu. Ngài lại c̣n được gọi là
Thân Tử, biểu thị ư nghĩa thân mẹ Ngài đoan
chánh). Tên họ Ngài có liên quan đến mẹ, mẹ Ngài
tướng mạo vô cùng đoan trang. “Xá Lợi Phất
tại Phật Thanh Văn đệ tử trung, trí huệ
đệ nhất” (Trong các hàng đệ tử Thanh
Văn của đức Phật, ngài Xá Lợi Phất trí
huệ bậc nhất).
Tiếp theo đó là một
câu chuyện nhỏ, ở đây bèn tiện dịp nhắc
tới: “Tại mẫu thai thời,
năng linh mẫu đắc diệu biện, thắng
ư năi cữu Câu Hy La” (Lúc c̣n trong
thai, Ngài đă khiến cho mẹ nói năng hùng hồn
hơn cả ông cậu Câu Hy La), vị này về sau
cũng chứng A La Hán. Trong kinh Lăng Nghiêm có kể câu
chuyện này. Cậu của Ngài là tôn giả Câu Hy La (Kaustthila) biện tài vô ngại, chị
của vị này là mẹ ngài Xá Lợi Phất. Mỗi lần
biện luận, bà đều căi thua em trai, người em
trai bà ta quả thật rất tài giỏi. Nhưng sau khi bà
có mang Xá Lợi Phất, đột nhiên biện tài nâng cao
trên một mức độ to lớn; hễ cùng Câu Hy La biện
luận, Câu Hy La thường thua cuộc! Do vậy, Ngài
nghĩ: “Nói chung, đây chẳng phải là biện tài của
chị, bà ta mang thai đứa bé này nhất định nó là
người hết sức có trí huệ”. Ngài nói với chị
như vậy, sau này quả nhiên chẳng sai! Đứa bé ấy
đúng là trí huệ bậc nhất.
Quư vị
thấy phần kế tiếp nêu lên hành trạng của
ngài Xá Lợi Phất. “Bát tuế
đăng tọa” (tám tuổi lên giảng ṭa), lên ṭa giảng
kinh là một tiểu Sa Di, tiểu Sa Di giảng kinh, A La Hán
đều ở bên cạnh nghe. “Thập
lục xuất quốc, nghị luận vô song. Thất nhật
chi nội, biến đạt Phật pháp” (mười
sáu tuổi đi các nước, nghị luận chẳng
ai sánh bằng. Trong ṿng bảy ngày, hiểu trọn Phật
pháp). Ở đây, “biến
đạt Phật pháp” bao hàm ư nghĩa đại triệt
đại ngộ. Mười sáu tuổi vẫn c̣n là một
thiếu niên, đă thông đạt trọn khắp Phật
pháp. V́ vậy, phàm phu thành Phật đúng là trong một niệm.
Tại Trung Quốc, Thiền Tông Lục Tổ Huệ
Năng thông hiểu trọn khắp Phật pháp lúc hai
mươi bốn tuổi, c̣n ngài Xá Lợi Phất là
mười sáu tuổi. Trong kinh Đại Thừa, đức
Thế Tôn cũng bộc lộ thân phận của tôn giả:
Ngài là cổ Phật tái lai, cùng với Mục Kiền Liên,
hai vị ấy đều đă thành Phật, đến
thị hiện trong thế gian này, thị hiện làm đệ
tử Thanh Văn của Thích Ca Mâu Ni Phật. Đấy là
các vị Pháp Thân đại sĩ, hoặc chư Phật
Như Lai, nên dùng thân ǵ để độ được
bèn hiện thân ấy. Các Ngài là những người đến
giúp đỡ, đúng là “một
vị Phật ra đời, ngàn vị Phật ủng hộ”,
từ chỗ này chúng ta có thể thấy [điều ấy].
Những bậc giác ngộ trong Phật pháp, họ chẳng
có ư niệm ham cao, chuộng xa, chẳng bị ghen ghét
chướng ngại. Pháp duyên của Thích Ca Mâu Ni Phật
chín muồi, đến xuất hiện trong thế gian này
dưới thân phận Phật, Ngài xuất hiện một
ḿnh có thể độ nổi chúng sanh hay chăng? Lúc ấy
sẽ chẳng thể độ, nhất định phải
có rất nhiều người phối hợp với Ngài,
đến giúp đỡ, những ai sẽ giúp đỡ?
Nhất định là những vị nội hạnh (thông
hiểu, lăo luyện), chứ những kẻ lơ mơ
ngoài ŕa sẽ chẳng thể giúp được! Những
vị [nội hạnh] ấy tuyệt đại đa số
là chư Phật Như Lai, một số ít là Pháp Thân Bồ
Tát, Pháp Thân Bồ Tát đều là Địa Thượng
Bồ Tát.
Tức
là trong bốn mươi mốt địa vị như
kinh Hoa Nghiêm đă nói, các Ngài thuộc tầng lớp cao nhất
là Thập Địa Bồ Tát, chẳng phải là Tam Hiền.
Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng
được gọi chung là Tam Hiền, tập khí vô thỉ
vô minh của Tam Hiền Bồ Tát vẫn c̣n nồng đậm,
Thập Địa Bồ Tát rất mỏng, ngày càng gần
với quả vị Diệu Giác viên măn rốt ráo, [các
đệ tử Phật] là những vị ấy. Chúng ta
hiểu rơ, kinh đă nói tỉ mỉ, Sơ Trụ Bồ
Tát thị hiện trong lục đạo, hay trong mười
pháp giới, có năng lực thị hiện ba mươi
hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, thị hiện
thân Phật trong lục đạo để phổ độ
chúng sanh. Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện thân Phật, Lục
Tổ Huệ Năng đại sư thị hiện thân tỳ-kheo,
ở đây, tôn giả Xá Lợi Phất cũng thị hiện
thân tỳ-kheo. Chúng ta phải biết, phải học tập
điều này, phải có tâm rất hoan hỷ, tâm thanh tịnh,
tâm b́nh đẳng, tâm giúp cho người khác thành tựu những
điều tốt đẹp. Người ta làm chuyện
tốt đẹp cần có kẻ khác chạy việc vặt,
cần có người phục vụ, thấy không có ai [làm
những chuyện đó] th́ chúng ta phải đến [giúp
đỡ]. C̣n có những vị thị hiện làm quốc
vương, đại thần, trưởng giả,
cư sĩ để ngoại hộ, những vị ấy
chẳng phải là phàm nhân!
“Bổn kinh thuyết thử nhất
thiết thế gian nan tín chi pháp, duy đại trí giả
thỉ năng thâm tín bất nghi. Cố liệt Thượng
Thủ, cẩn thứ Kiều Trần Như” (Kinh này nói đến pháp hết thảy thế
gian khó tin được, chỉ có bậc đại trí mới
có thể tin tưởng sâu xa chẳng nghi ngờ. V́ vậy,
tên Ngài được kể trong các vị Thượng Thủ,
ngay sau ngài Kiều Trần Như). Ngài được
xếp vào thứ hai, trong hội này, đức Thế Tôn
thuyết pháp ǵ? Pháp môn này là vô thượng vi diệu pháp
trong [hết thảy các pháp] thế gian lẫn xuất thế
gian. V́ sao? Có thể làm cho chúng sanh chưa đoạn tập
khí phiền năo thành Phật trong một đời, đúng
là khó tin. Một phẩm tập khí phiền năo chưa
đoạn, làm sao có thể thành Phật ngay trong thân này? Khó
tin th́ ai có thể tin? Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát chẳng
tin. V́ thế, họ phải đi ḷng ṿng, ḷng ṿng là “thụ
xuất” (thoát khỏi tam giới theo chiều dọc).
Con đường này là hoành xuất, tức là thoát ra từ
ngay trong lục đạo! Quư vị nghĩ thử xem thoát
ra theo chiều dọc khó dường nào? Quư vị phải
trải qua Dục Giới Thiên, Sắc Giới Thiên, Vô Sắc
Giới Thiên, Tứ Thiền, Bát Định. Quư vị c̣n
phải trải qua tứ thánh pháp giới mới có thể
thoát ra. Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật trong tứ thánh pháp giới phải đoạn sạch
sành sanh vọng tưởng, phân biệt, chấp trước,
mới có thể vượt thoát mười pháp giới.
Chuyện này cần thời gian bao lâu, thời gian lâu chừng
nào? Kinh Phật thường nói là vô lượng kiếp.
Trên thực tế, thời gian chẳng phải là một
pháp cố định, pháp do đức Phật nói là viên
dung. Đối với vô lượng kiếp, có thể nói
là kẻ kém may mắn sẽ thật sự phải trải
vô lượng kiếp. Vô lượng kiếp nên nói như
thế nào? Nhân đạo trong lục đạo là chỗ
mấu chốt, hễ chuyển biến chỗ đó, sẽ
nhất định thành Phật trong nhân đạo. Trong lục
đạo, chưa hề nghe nói Phật có thể thị
hiện thân Phật để thuyết pháp trong đường
nào khác, không có! Lục đạo chúng sanh có cảm, Phật
đều ứng, nhưng chẳng thể dùng thân Phật
để xuất hiện, chỉ có trong nhân gian, nhân gian là
mấu chốt!
Con
người tạo tác các thứ nghiệp. Người tạo
thiện nghiệp, quả báo là trong ba đường lành,
v́ sao vào trong ba đường lành? Để tiêu phước
báo. Phước chẳng phải là chuyện tốt,
người thế gian nghĩ nó là chuyện tốt đẹp,
nhưng người tu đạo biết nó chẳng phải
là chuyện tốt. Tạo tác hết thảy nghiệp bất
thiện th́ sao? Vào trong tam ác đạo để tiêu nghiệp
bất thiện. Do vậy, quư vị biết nhân gian, cơi trời,
lục đạo luân hồi, nói xuyên suốt là chẳng
qua để “tiêu nghiệp” mà thôi. Nếu quư vị chẳng
tạo nghiệp, lục đạo sẽ chẳng có, quư vị
vĩnh viễn thoát ĺa lục đạo, thật đấy,
chẳng giả tí nào. Chẳng tạo “chấp trước”
như kinh Hoa Nghiêm đă nói, tức là chẳng c̣n chấp
trước hết thảy các pháp thế gian và xuất thế
gian, đoạn Kiến Tư phiền năo, lục đạo
bèn chẳng c̣n. Lục đạo không có, tứ thánh pháp giới
sẽ hiện tiền, vẫn là bốn tầng bậc. Thấp
nhất là Thanh Văn A La Hán, ở nơi ấy, toàn bộ
đều là A La Hán. Lên cao hơn là Bích Chi Phật, lên cao
hơn nữa Bồ Tát, lên cao hơn nữa là Phật, Phật
ở đây là Phật trong mười pháp giới. Trong Tịnh
Độ, tứ thánh pháp giới được gọi là
cơi Phương Tiện Hữu Dư, lục đạo
được gọi là cơi Phàm Thánh Đồng Cư;
vượt thoát mười pháp giới mới là cơi Thật
Báo Trang Nghiêm. Những cơi ấy do đâu mà có? Toàn là do tâm của
chính ḿnh biến hiện, phải nhớ điều này! Bốn
cơi, mười pháp giới toàn là do “tâm hiện, thức biến”,
ngoài tâm không có pháp, ngoài pháp chẳng có tâm, thật đấy,
chẳng giả đâu! Chính ḿnh biến hiện cho chính ḿnh
thụ dụng, ngay cả địa ngục A Tỳ
cũng do chính ḿnh biến hiện. Tâm hạnh quư vị bất
thiện bèn biến hiện cảnh giới ấy, quư vị
đến đó chịu khổ, đấy là tự làm, tự
chịu!
V́ thế,
hiểu đạo lư này, chúng ta bèn hiểu rơ ư niệm có
quan hệ quá lớn, khởi tâm động niệm chớ
nên có ác niệm, ác niệm là phiền năo. Đừng nên
sanh phiền năo, sanh phiền năo sẽ có quả báo, chẳng
phải là sanh xong rồi thôi! Dẫu thân và miệng chúng ta
chưa làm, mới dấy lên một niệm, niệm ấy
đă kết thành nghiệp, chẳng cần đến thân
và miệng. Hễ khởi tâm động niệm, quư vị
đă tạo nghiệp. Trong A Lại Da có chủng tử của
nghiệp tập ấy, gặp duyên, quả báo sẽ hiện
tiền. Do vậy, chẳng đoạn một phẩm phiền
năo, cớ sao có thể thành Phật? Há có đạo lư ấy?
Ngay cả Tu Đà Hoàn mà c̣n chưa đạt được,
làm sao có thể thành Phật cho được? Thật vậy!
Trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư của Tây Phương Cực
Lạc thế giới, chưa đoạn phiền năo, chữ
“phiền năo” [ở đây] nhằm nói tới Kiến
Tư phiền năo chưa đoạn. Sanh đến thế
giới Cực Lạc, dẫu là hạ hạ phẩm văng
sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, vẫn là A Duy Việt
Trí Bồ Tát. Trong lời nguyện thứ mười hai, A
Di Đà Phật đă nói như vậy, A Di Đà Phật
chẳng nói lời giả! A Duy Việt Trí là Bồ Tát
như thế nào? Bồ Tát đă đạt ba món Bất
Thoái. Chúng ta biết Vị Bất Thoái, vừa mới chứng
đắc Vị Bất Thoái là Tu Đà Hoàn; do vậy, Tu
Đà Hoàn là thánh nhân; tuy là vị thánh nhỏ nhoi mới
đoạn hết tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc,
chứng Vị Bất Thoái, Vị Bất Thoái là ǵ? Chẳng
lui sụt thành phàm phu, chẳng đọa trong tam ác đạo.
Tuy chưa thoát khỏi lục đạo luân hồi, vị
ấy đă được đảm bảo chẳng
đọa trong tam đồ, bảy lần sanh tử trong
cơi trời hay trong nhân gian, bất luận có Phật xuất
hiện trên thế gian hay không, vị ấy đều có
thể chứng đắc quả A La Hán, luôn có thể chứng
quả. Cũng tức là tuy vị ấy chưa vượt
thoát lục đạo luân hồi, Ngài là thánh nhân, chẳng
phải là phàm nhân, Vị Bất Thoái mà! Hạnh Bất
Thoái là Bồ Tát. Bồ Tát phát Bồ Đề tâm, Hạnh
bèn chẳng thoái; chẳng phát Bồ Đề tâm sẽ
thoái chuyển. Bồ Đề tâm chẳng dễ phát.
Địa vị cao nhất là Niệm Bất Thoái, chúng ta
thường nói [Niệm Bất Thoái] là “một mục
tiêu, một phương hướng, dũng mănh tinh tấn”,
đấy là ai? Pháp Thân Bồ Tát, vượt thoát mười
pháp giới.
Từ
giáo pháp Đại Thừa, chúng ta thấy chân tướng
sự thật ấy, mới hiểu pháp môn này thật sự
khó tin. Thật sự khó tin nhưng chúng ta tin, chúng ta tin vào
khái niệm ấy có đúng hay không? Ḷng tin ấy có tầng
cấp, quư vị thấy phàm nhân chúng ta thường nói “mê
tín, chánh tín, và chân tín”, tức là ba cấp bậc. Kẻ mê
tín đông đảo, thấy kẻ khác tin nên chúng ta
cũng tin, trong kinh luận Tịnh Độ rốt cuộc
giảng lư luận ǵ, không biết! Do không biết, nên gọi
là mê tín. Quư vị thật sự hiểu rơ ràng, minh bạch
kinh giáo th́ gọi là chánh tín. Chánh tín vẫn chưa phải
là chân tín. Tuy hiểu minh bạch, rơ ràng, vẫn chưa muốn
sanh về, vẫn c̣n rất lưu luyến thế gian này,
đó chẳng phải là chân tín; chẳng thể nói quư vị
mê tín, v́ quư vị thật sự hiểu rơ ràng, minh bạch.
Khi nào t́nh chấp của quư vị đối với lục
đạo, cơi trời, nhân gian đều buông xuống hết,
quư vị sẽ thật sự tin tưởng, chỉ có
người chân tín mới có thể thành tựu trong một
đời, v́ sao? Người ấy chắc chắn văng
sanh. Nếu quư vị hỏi v́ sao người ấy có thể
chắc chắn văng sanh? Người ấy chẳng hề
có mảy may vướng mắc thế gian này, đạo
lư là như thế đó! Không ai chướng ngại quư vị,
mà là chính ḿnh chướng ngại chính ḿnh. V́ sao quư vị vẫn
tham luyến thế gian này? Nói thật ra, do tập khí đấy!
Cổ thánh tiên hiền Trung Quốc gọi [tập khí] là “tập
tánh”, bổn tánh vốn thiện, tập tánh bất thiện.
Tập tánh là từ vô thỉ kiếp cho tới nay, đời
đời kiếp kiếp dưỡng thành, chẳng phải
chỉ trong một đời này, mà là đời đời
kiếp kiếp, rất phiền phức. Do vậy, phải
có tâm dũng mănh mới có thể đoạn dứt chuyện
ấy, cắt đứt hoàn toàn. Thật sự nhận biết
Tây Phương Cực Lạc thế giới, mảy may
hoài nghi đều không có, quyết tâm sanh về thế giới
Cực Lạc trước để thân cận A Di Đà
Phật.
Thân cận
để làm ǵ? Một mục tiêu là đại triệt
đại ngộ, minh tâm kiến tánh trong hội của A
Di Đà Phật, tới thế giới Cực Lạc
để làm chuyện ấy. Triệt ngộ th́ quư vị
sẽ sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm trong Tây Phương Cực
Lạc thế giới; nhưng thế giới Cực Lạc
rất kỳ diệu, bốn cơi chẳng chướng ngại,
bốn cơi dung hội cùng một chỗ, đấy là chỗ
chẳng thể nghĩ bàn. Thích Ca Thế Tôn cũng có bốn
cơi, nhưng bốn cơi của Ngài có chiều không gian khác
nhau, Ngài ngự trong cơi Thật Báo. Pháp Thân Bồ Tát trong cơi
Thật Báo biết chúng ta tồn tại, nhưng chúng ta chẳng
biết các Ngài ở đâu. Đó là có chướng ngại,
không chỉ Lư Sự chướng ngại, mà c̣n là Sự Sự
chướng ngại; nhưng trong cơi Thật Báo bèn hoàn toàn
đột phá [những chướng ngại ấy]. Trong
cơi Phương Tiện, Lư Sự vô ngại, nhưng Sự
Sự có ngại. Tới cơi Thật Báo, hết thảy
chướng ngại đều không có! Trong đời này,
chúng ta có duyên phận thù thắng như vậy, cho thấy
thiện căn trong đời quá khứ sâu dầy. Nếu
chẳng phải là thiện căn rất sâu dầy, quư vị
làm sao có thể gặp gỡ pháp môn này? Người học
Phật đông lắm, nhưng mấy kẻ gặp gỡ
pháp môn này? Khi gặp gỡ, có nhận biết hay không? Có liễu
giải hay chăng? Nhận biết, liễu giải, thật
sự liễu giải, chẳng ai không phát tâm. Phát nhất
niệm tâm cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới, tâm ấy được gọi là Vô Thượng
Bồ Đề tâm, trong Di Đà Kinh Yếu Giải, Ngẫu
Ích đại sư đă giảng như vậy. Ấn
Quang đại sư đọc câu ấy, bội phục
năm vóc sát đất, [bảo]: “Chẳng phải là bậc tái lai sẽ chẳng thể
thốt lên lời ấy”. Chúng ta hiểu Bồ Đề
tâm, nói theo cách hiện thời, [Bồ Đề tâm] là trọn
đủ chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ
bi, nhất niệm chân tâm hướng tới Tịnh Độ,
năm thứ ấy thảy đều trọn đủ.
V́ thế, danh tự của ngài [Xá Lợi Phất
được ghi] ở đây nhằm nói rơ, chẳng phải
là đại trí huệ th́ làm sao có thể tin tưởng
sâu đậm, chẳng nghi ngờ pháp môn này? “Danh liệt đệ nhị”
(tên được nêu thứ hai): Đệ nhất
đương nhiên quan trọng hơn, trong phần trước
chúng ta đă học, vị thứ nhất là tôn giả Kiều
Trần Như. Tôn giả Kiều Trần Như tượng
trưng cho đệ tử bậc nhất của đức
Thế Tôn. Tại Lộc Dă Uyển, Thích Ca Mâu Ni Phật vừa
mới thuyết pháp, tại Lộc Dă Uyển độ
năm tỳ-kheo, Ngài là người đầu tiên chứng
A La Hán, nói rơ pháp môn này là pháp thành Phật bậc nhất, chẳng
phải là chứng A La Hán, mà là thành Phật bậc nhất.
V́ thế, tên của Ngài được xếp vào bậc
nhất.
Chúng ta lại
xem vị thứ ba, “tôn giả
Đại Mục Kiền Liên, tức A Di Đà kinh trung Ma
Ha Mục Kiền Liên” (tôn giả Đại Mục Kiền
Liên, tức Ma Ha Mục Kiền Liên trong kinh A Di Đà), Ma Ha
là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Đại.
Ma Ha có nghĩa là lớn, “Mục
Kiền Liên thị tánh, dịch vi” (Mục Kiền Liên
là họ, dịch là), Mục Kiền Liên là tiếng Phạn,
dịch sang chữ Hán có nghĩa là Tán Tụng, thông thường
rất ít nhắc đến ư nghĩa này, mà nói là “Thái Thục, Lai Bặc Căn
đẳng” (Thái Thục, Lai Bặc Căn v.v...), đấy
mới là ư nghĩa gốc trong tiếng Phạn, nêu ra nguyên
do danh xưng của ḍng họ Ngài. Thục (菽) thuộc loại đậu[1],
chúng ta thường gọi Lai Bặc (萊菔) là La Bặc (蘿蔔: củ cải). Chúng ta biết ḍng họ
của Ngài là nông dân. Nh́n từ ư nghĩa này, nay chúng ta nói họ
là “thái nông”, tức nông dân trồng rau. “Kỳ tộc xuất gia nhân đa, cố ư tôn giả
tánh thị quán dĩ Đại tự, viết Đại
Thái Thục (Đại Mục Kiền Liên) dĩ giản
biệt chi” (ḍng họ ấy có nhiều người xuất
gia, nên trước tên họ của tôn giả, thêm chữ
Đại, thành Đại Thái Thục (Đại Mục
Kiền Liên) để phân biệt). Thời cổ, nông dân
rất khổ cực, cũng chẳng thể rất giàu
có, người Trung Quốc bảo “nhờ trời kiếm
miếng ăn”, chắc chắn họ là người thật
thà, thuần phác. Người đến thế gian này, xuất
hiện trong thế gian này để theo đuổi công việc
ấy, suốt đời làm việc, ít tạo bất thiện
nghiệp, thiện nghiệp tích lũy dần dần. Thiện
nghiệp là ǵ? Những nhà nông ấy trồng trọt, thâu
hoạch mùa màng, nuôi sống hết thảy đại chúng
trong xă hội, âm thầm cày cấy. Con người có tập
khí này, động vật cũng có tập khí này. Họ chỉ
mong mùa màng sung túc, hằng ngày đều nghĩ tới chuyện
ấy. V́ thế, đối với nghề nghiệp này,
có thể là cả mấy đời đều làm nghề
ấy, chẳng nghĩ đổi nghề, mà cũng có thể
là hoàn cảnh khách quan cũng không cho phép. Do đức Phật
nói “hết thảy các pháp sanh từ
tâm tưởng”, chúng ta có thể lư giải: [Ḍng họ ấy]
có nhiều người xuất gia, chắc chắn là xuất
gia tu hành thành tựu thù thắng, mọi người thấy
vậy nhất định rất hâm mộ, có mấy vị
thành tựu sẽ khơi gợi rất nhiều người
học tập theo. V́ thế, trong danh xưng của tôn giả,
phải thêm chữ Đại vào trước chữ Mục
Kiền Liên để phân biệt, gọi “Đại Mục Kiền Liên” là tôn xưng Ngài.
“Kỳ danh vi Câu Luật Đà, phụ
vi Tướng Quốc” (Tên Ngài là Câu Luật Đà
(Kolita), cha làm Tướng Quốc), chúng ta biết thuở ấy
Trung Quốc chưa thống nhất, đời Châu có tám
trăm chư hầu, đều là những bộ lạc
nhỏ. Ấn Độ cũng giống như thế. Cha
của Thích Ca Mâu Ni Phật là quốc vương, tức
quốc vương nước Ca Tỳ La Vệ
(Kapilavatsu). Nước này hiện thời thuộc địa
bàn nước Ni Bạc Nhĩ (
Trong Trí Độ Luận có mấy
câu như thế này: “Như Xá
Lợi Phất ư trí huệ trung đệ nhất, Mục
Kiền Liên thần túc đệ nhất” (như Xá Lợi
Phất là trí huệ bậc nhất, Mục Kiền Liên thần
túc bậc nhất). Người Trung Quốc thường
gọi Thần Túc là “thông linh”,
thuộc loại cảm ứng. Trong sáu
thứ thần thông, Thần Túc Thông cao nhất, có thể
phi hành, biến hóa. Người Hoa đọc Tây Du Kư, thấy
Tôn Ngộ Không thị hiện thần thông, bất quá thần
thông rất bé. Quư vị thấy sách viết hắn chỉ
có bảy mươi hai phép biến hóa. Đúng ra, bảy
mươi hai chẳng phải là con số. Nếu là con số,
năng lực của hắn vô cùng hữu hạn. Nếu
nói theo ư nghĩa biểu thị pháp, sẽ nói thông suốt,
thần thông rộng lớn, đúng là tự tại vô ngại.
Trong các đệ tử đức Phật, Mục Kiền
Liên có năng lực ấy. “Hựu
Xá Lợi Phất thị Phật hữu diện đệ
tử, Mục Kiền Liên thị Phật tả diện
đệ tử” (Lại nữa, Xá Lợi Phất là
đệ tử bên phải Phật, Mục Kiền Liên là
đệ tử bên trái Phật). Bên phải là trí huệ,
bên trái là thần thông, trí huệ và thần thông hợp lại
bèn viên măn, năng lực giáo hóa chúng sanh đúng là tự tại
vô ngại. “Tôn giả thần
thông thậm quảng, lệ như cử nhất thành Thích
chủng, thượng thăng Phạm thiên” (Tôn giả thần thông rất rộng, chẳng
hạn như đem toàn bộ người họ Thích trong
một thành bay lên trời Phạm thiên). Chuyện này
là do Lưu Ly Vương (Virūdhaka)
diệt ḍng họ Thích Ca[2], đương nhiên đức Thế
Tôn cũng rất đau buồn, nhưng không có hành động
ǵ, v́ sao? Thích Ca Mâu Ni Phật biết đấy là nhân quả,
quá khứ tạo tác cái nhân bất thiện, đời này
nhất định phải chịu quả báo ấy, không
thể tránh được. Ngài Mục Kiền Liên không biết
cái nhân ấy [th́ cái nhân ấy] nhất định là đă
rất lâu, v́ như thường nói “A La Hán có thể biết
năm trăm đời quá khứ, và năm trăm đời
vị lai”. Chuyện này chắc chắn phải lâu hơn
năm trăm đời, nên sức thần thông của A
La Hán chẳng thấu đạt. Đức Phật biết,
hiểu rất rơ ràng, khuyên dạy người trong họ
hăy tránh né. Do lẽ đó, khi ấy, ngài Mục Kiền Liên
bèn cứu năm trăm người, đặt trong bát,
đem bát ấy lên cơi Đại Phạm Thiên. Đại
Phạm Thiên là Sơ Thiền, đặt ở nơi ấy
để lánh nạn, chờ cho chuyện ấy qua đi.
C̣n ḍng họ Thích Ca th́ sao? Nghe lời Thích Ca Mâu Ni Phật,
một nhóm bỏ trốn. Nhóm này trốn
sang Tây Tạng v́
Những
sự thị hiện này cũng nhằm bảo chúng ta:
Chúng ta là người thật sự học Phật, sống
trong thế gian này, từng ly, từng tư, bất luận
thuận cảnh, nghịch cảnh, thiện duyên, ác duyên,
thảy đều là chư Phật Như Lai đang thị
hiện, hay năm mươi ba lần tham học của Thiện
Tài đồng tử, [cách nghĩ như vậy] quyết
định là chính xác. Thị hiện điều ǵ vậy?
Quư vị giết người khác, chắc chắn người
ta sẽ giết quư vị, oán hận chẳng giải trừ,
đời đời kiếp kiếp oan oan tương báo
chẳng xong. Thích Ca Mâu Ni Phật khuyên người trong họ
nhất định đừng chống lại [Tỳ
Lưu Ly], chớ nên có oán hận, món nợ ấy đến
đây kết liễu, sau này chẳng c̣n đối địch
nữa. Điều ấy chắc chắn là chính xác. Mấy
ai có trí huệ như vậy, thấy địch thủ
đến xâm phạm mà chẳng chống cự? Chỉ có
Phật pháp biết. Chiến tranh ắt phải có nhân, có
cuộc chiến tranh nào chẳng do cái nhân trước
đó gây ra hay chăng? Không thể nào có chuyện ấy!
Chúng ta biết quá khứ đă tạo tác tội nghiệp,
những người bị sát hại trong chiến tranh, nếu
chẳng giết người, mà bị kẻ khác giết,
sẽ sanh lên trời, chẳng đọa tam đồ; kẻ
sát nhân có tội, trong tương lai đọa tam đồ.
Quư vị thấy kẻ ấy đọa tam đồ,
đưa quư vị sanh lên trời. Đức Phật thấy
rơ ràng chuyện này, A La Hán, Bồ Tát thấy rơ ràng: Trốn
chẳng được, giết người phải đền
mạng, thiếu nợ phải trả tiền, trốn chẳng
được! Thiếu nợ bèn hoan hỷ trả nợ.
Cách trả nợ cũng khác nhau. Có lúc quư vị cho kẻ
khác mượn tiền, hắn chẳng trả lại, có
thể là ǵ? Kiếp trước quư vị đă vay tiền
hắn, sau khi mượn, quư vị chẳng trả, nên kẻ
ấy cũng lấy lại bằng cùng một cách. Vậy
th́ sao? Hoan hỷ, chớ nên ghim chuyện này trong ḷng nữa,
coi như thiếu nợ hắn, đưa cho hắn. Nếu
chẳng phải là thiếu nợ hắn, đời sau hắn
phải trả lại quư vị. Chúng ta có muốn [như vậy]
hay là không? Chớ nên! V́ sao? Nếu muốn, quư vị vẫn
phải luân hồi. Quư vị chẳng luân hồi, hai bên chẳng
gặp nhau, không thể tháo gỡ được! Quư vị
có chịu luân hồi nữa hay không? Nếu chẳng muốn
luân hồi nữa, nay ta sang thế giới Cực Lạc
làm Phật, hăy một nét bút sổ toẹt. Thiếu hắn,
bèn trả cho hắn; chẳng thiếu hắn th́ chẳng
cần đến nữa! Tặng cho hắn, như vậy
là xong! Điều ǵ cũng chẳng cần so đo, buông
xuống vạn duyên, chúng ta mới tới thế giới
Cực Lạc được. Chỉ cần có một chuyện,
có mảy may vướng mắc sẽ chẳng xong. V́ thế,
nay chúng ta sống trên thế gian này, bất luận kẻ
nào đối xử với ta ra sao, chúng ta đều phải
tiếp nhận, chớ nên có chút ư kiến nào, sao cũng
được, chuyện ǵ cũng đều gật đầu.
Đó là ǵ? Đó là đại đạo để chúng ta
về Tây Phương thành Phật. Nếu chuyện tí tẹo
mà vẫn so đo th́ mỗi ngày mười vạn câu Phật
hiệu vẫn chẳng đáng trông cậy, tới lúc
đó, quư vị không đi được! Một niệm
cuối cùng vẫn so đo cùng kẻ khác, c̣n làm sao được
nữa? Chúng ta nói học Phật có tiến bộ, tiến
bộ là ǵ? Hết thảy đều chẳng so đo,
điều ǵ thấy cũng chấp nhận được,
điều ǵ cũng đều tốt đẹp, đó
là tiến bộ. Đây là một ví dụ [về thần
thông của ngài Mục Kiền Liên].
Tiếp
đó, lại nói đến ví dụ thứ hai: “Ngoại đạo di sơn, chế
chi bất động” (ngoại
đạo dời núi, ngăn trở chẳng cho lay động).
Có thể dời núi hay không? Có thể dời núi, lấp biển.
Hiện thời dùng máy móc, xưa kia, thật sự có thể
dùng pháp thuật để thực hiện. Hiện tại,
các nhà Lượng Tử Lực bảo chúng ta: Nếu ư niệm
của con người có thể thật sự tập trung
tại một chỗ, sức mạnh của nó sẽ chẳng
thể nghĩ bàn. Nói theo lư luận là “cảnh chuyển
theo tâm”. V́ thế, trên địa cầu có tai nạn,
chúng ta là những kẻ sống trên đó, sức một
người chẳng đủ, nhưng ư thức của tập
thể sẽ có sức mạnh to lớn. Bao nhiêu người?
Có thể là mấy chục người, hoặc một
trăm người, sức mạnh ấy vô cùng đáng kể.
Chúng ta thấy một thí dụ thực tế từ tiến
sĩ Giang Bổn Thắng của Nhật Bản. Hồ Tỳ
Bà (Biwa Ko)[4] là một eo biển,
trong khoảng hơn hai mươi năm, eo biển ấy
rất bẩn thỉu, mùi vị rất khó ngửi. Ông ta
t́m hơn một trăm người, dùng phương pháp kỳ
đảo. Kỳ đảo là tập trung ư niệm, t́m một
vị lăo ḥa thượng cầm đầu mọi người.
Văn kỳ đảo rất đơn giản: “Nước
hồ trong sạch, ta yêu mến ngươi”. Quư vị thấy
một câu nói đơn giản dường ấy, khiến
cho mọi người thảy đều buông xuống ư niệm,
trong tâm tưởng ư niệm ấy, miệng đọc
câu ấy, nước hồ trong sạch. Hơn một
trăm người: “Nước hồ trong sạch, ta yêu
mến ngươi”, đọc câu này tiếp nối câu
kia, tập trung ư niệm suốt một giờ, làm suốt
một giờ. Quả nhiên ba ngày sau, nước eo biển
ấy thật sự sạch sẽ, chẳng c̣n mùi hôi. Truyền
thông và TV Nhật Bản đều đăng tin. Giữ
được nửa năm lại trở lại t́nh trạng
cũ, lại dơ bẩn. Tôi bảo ông ta: “Tốt nhất
là cứ hai tháng quư vị tới đó cầu nguyện một
lần, eo biển ấy nói chung sẽ có thể suốt
năm chẳng dơ bẩn, chẳng có mùi hôi”. V́ thế,
cầu đảo hữu dụng! Những kinh sám Phật
sự trong Phật môn chúng ta, kể cả Tam Thời Hệ
Niệm do chúng tôi đề xướng đều thuộc
loại này, nhưng loại này trị đằng ngọn,
chứ chẳng trị tận gốc. Trị tận gốc
là phải chuyển biến ư niệm của chúng ta, đoạn
hết thảy ác, tu hết thảy thiện; đấy là
trị tận gốc. Trị tận gốc mới có
năng lượng hóa giải nhiều tai nạn trên địa
cầu. Trị tận gốc đ̣i hỏi giáo dục;
giáo dục luân lư, đạo đức, nhân quả, tôn giáo
sẽ có thể làm được. Ngài Mục Kiền Liên
có thể dùng pháp thuật để chế ngự, khiến
núi ấy bất động, ngoại đạo dời
núi nhưng chẳng dời được, v́ ngài Mục Kiền
Liên đă giằn xuống.
Tiếp đó, nói: “Cập hàng phục độc
long đẳng đẳng, nan dĩ cụ thuật” (và
những chuyện như hàng phục rồng độc
v.v... khó thể thuật trọn). Sự tích thần thông của
Ngài rất nhiều. Miệng rồng nhả hơi độc
tổn hại con người, Ngài có năng lực bắt
nó hàng phục. Đây là nêu ra rất nhiều ví dụ về
thần thông. V́ sao đức Phật cần có đệ tử
như vậy? Trong khi hướng dẫn, giáo hóa chúng sanh,
có những lúc cần phải dùng đến. Bản thân
đức Phật chẳng hiện thần thông, thần
thông của đức Phật to hơn Mục Kiền
Liên, nhưng chẳng hiện, mà để ngài Mục Kiền
Liên thị hiện; khiến cho hết thảy đại
chúng, từ bản thân của đệ tử Phật, sẽ
liễu giải chính ḿnh sẵn có năng lượng chẳng
hạn chế. Đó là bản năng trong tự tánh, là Tánh
Đức của tự tánh.
Lại
xem vị thứ ba: “Tôn giả
Ca Diếp, Ca Diếp tánh dă, thử dịch vi Quy hoặc Ẩm
Quang, danh Tất Ba La, diệc thụ
danh” (Tôn giả Ca Diếp: Ca
Diếp (Kāśyapa) là họ, Hán dịch là Quy, hoặc
Ẩm Quang. Ngài tên Tất Ba La (Pippali), cũng là tên một
loài cây), cũng là tên một loài cây. “Nhân phụ mẫu
đảo ư cai thụ thần nhi sanh, cố dụng
dĩ vi danh” (Do cha mẹ cầu
đảo nơi thần cây ấy sanh ra Ngài, nên lấy tên
cây để đặt tên). Vị này đại diện
cho người truyền pháp của Tông Môn. Phật pháp phân
chia tổng quát th́ có hai chi phái: Một là Tông Môn, hai là Giáo Hạ.
Ngài Ca Diếp truyền Thiền Tông, ngài A Nan truyền Giáo
Hạ. Bốn mươi chín năm giáo học dùng hai
phương pháp ấy. Đức Phật dạy kẻ
thượng thượng căn học Thiền, c̣n đối
với kẻ trung hạ căn, đức Phật dạy
họ học Giáo; thuở ấy, có hai loại căn tánh
như thế. Nay chúng ta gọi người thượng
thượng căn là “học tṛ thiên tài”, ngộ tánh đặc
biệt cao, thật sự là “nghe một, ngộ cả
ngàn”. Loại học tṛ này rất dễ dạy, giống
như ngài Đại Ca Diếp là “nghe một, ngộ cả
ngàn”. Ba căn thượng, trung, hạ giống như
chúng ta đi học trong nhà trường hiện thời, từ
Tiểu Học, Trung Học, Đại Học tiến dần
theo thứ tự. Quư vị thấy đức Phật suốt
đời giảng kinh, lúc đại triệt đại
ngộ, giảng bộ kinh đầu tiên là Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, giảng kinh ấy
trong Định. Người thế gian chúng ta không thấy,
người thế gian thấy Thích Ca Mâu Ni Phật ở
dưới cội Tất Bát La (Pippala Vrksha), tức là loại cây hiện
thời gọi là cây Bồ Đề, Ngài nhập Định
dưới cội cây. Kinh chép là mười bốn ngày,
cũng có kinh nói là hai mươi mốt ngày, đức Phật
nhập Định dưới cội cây. Ai biết Ngài
đang giảng kinh Hoa Nghiêm tại đó? V́ vậy, hiện
thời Nam Truyền Tiểu Thừa chẳng thừa nhận
có Đại Thừa, họ bảo Đại Thừa chẳng
phải do đức Phật nói. Họ thừa nhận
Đại Thừa Phật pháp do ai tạo? Long Thọ Bồ
Tát, [Tiểu Thừa cho rằng] kinh Hoa Nghiêm do Long Thọ Bồ
Tát giảng, chẳng phải do đức Phật nói.
Sau khi
đức Phật diệt độ sáu trăm năm, tại
Ấn Độ xuất hiện ngài Long Thọ. Trong kinh,
đức Phật có tiên đoán, có bài kệ tiên đoán
đến lúc ấy sẽ xuất hiện ngài Long Thọ
là Sơ Địa Bồ Tát. Ngài quả thật thông minh,
trong ba tháng thông đạt hết thảy các pháp, đối
với các pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong bốn
mươi chín năm, Ngài học xong trong ba tháng. Thế là
tâm ngạo mạn dấy lên, cảm thấy trọn khắp
Ấn Độ, hiện thời nói là “cả thế giới”,
chẳng ai có thể hơn nổi chính ḿnh. Do vậy, Đại
Long Bồ Tát, Đại Long là Đẳng Giác Bồ Tát, dẫn
ngài Long Thọ vào trong cung rồng. Đến cung rồng,
thấy Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm
Kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật lúc mới thành đạo đă
giảng trong Định suốt mười bốn ngày.
Phân lượng bao nhiêu? “Mười
tam thiên đại thiên thế giới vi trần kệ, một
tứ thiên hạ vi trần phẩm!” Ngài vừa nh́n bèn
choáng váng, tập khí ngạo mạn ngay lập tức chẳng
c̣n nữa, những thứ Ngài đă học quá ít. V́ sao?
Trong Định, thời gian và không gian đều chẳng
có. V́ thế, một niệm có thể triển khai thành vô
lượng kiếp, vô lượng kiếp có thể rút gọn
thành một niệm. Long Thọ Bồ Tát đến nh́n, lại
xem đến Trung Bổn Hoa Nghiêm, nhân gian vẫn chưa thể
tiếp nhận, phân lượng quá lớn. Lại xem tới
Hạ Bổn, Trung Bổn giống như bản tinh hoa, Hạ
Bổn là mục lục đề yếu (tóm tắt những
điểm chánh yếu). Ngài thấy bản ấy,
được! Mười vạn bài kệ, bốn
mươi phẩm, bèn lưu truyền bộ này trong nhân
gian. Người ta rất tài giỏi, sau khi đọc xong
một lần, có thể ghi nhớ toàn bộ; v́ thế,
[kinh Hoa Nghiêm] do Ngài chuyển thuật (thuật lại).
Đương nhiên, Ngài chẳng thêm một chữ nào vào
kinh văn, Ngài có thể tụng thuộc ḷng, kinh Hoa Nghiêm
do Ngài truyền. V́ thế, Nam Truyền Phật giáo chẳng
thừa nhận, cho kinh ấy do chính Long Thọ Bồ Tát
soạn ra, mạo nhận danh nghĩa Thích Ca Mâu Ni Phật
để lưu thông.
Đại
Thừa và Tiểu Thừa cách biệt hơn một ngàn
năm, mà cũng chẳng kính phục nhau! Đại Thừa
coi thường Tiểu Thừa, Tiểu Thừa nói Đại
Thừa chẳng đúng pháp, giả trất, chẳng thật!
Chúng ta nói theo Lục Ḥa Kính, đấy là bất ḥa, Đại
Thừa và Tiểu Thừa bất ḥa, đều do Thích Ca
Mâu Ni Phật truyền lại mà quư vị thấy con cháu
đời sau bất ḥa. Trên thực tế, nếu đều
học, vấn đề bèn có thể giải quyết, chớ
nên vạch giới hạn, không chịu học tập, đó
là trật mất rồi! Nếu đều chịu học
tập sẽ có thể dung thông. Nam Truyền
Tiểu Thừa khá chấp trước, năm xưa, h́nh
như là lần thứ hai hay lần thứ ba tôi sang
Cát Long Ba (Kuala Lumpur), gặp một pháp sư Tiểu Thừa
rất có tiếng tăm tại Nam Dương (Indonesia),
bước đến hỏi tôi, trách móc Thích Ca Mâu Ni Phật,
rất chẳng phục. Tôi hỏi v́ sao? Ông ta nói: “Đức
Phật đă nói nếu Ngài chẳng độ hết chúng
sanh sẽ chẳng thành Phật, nay tôi vẫn chưa thành
Phật, cớ sao Ngài đă thành Phật trước?” Vặn
hỏi tôi chuyện như thế. Tôi nói: “Thuở Phật
tại thế, Ngài đă độ hết các chúng sanh, thật
sự đă độ hết, ông cũng đă được
Ngài độ rồi!” Ông ta ngơ ngác: “Độ tôi
như thế nào?” “Ngày nay ông luôn miệng nói đến Phật,
trong A Lại Da Thức của ông đă có Phật, ông có biết
hay không? Đức Phật do độ chúng sanh nên đến
thế gian này, chẳng phải là đă nói rất rơ ràng
ư? Độ chúng sanh căn cơ chín muồi! Ông
chưa chín muồi!” Giống như trồng cây, trồng một
cây đào [chẳng hạn]. Tôi xách giỏ tới cây ấy
hái trái đào, tôi hái quả nào? Đương nhiên hái quả
chín trước. Trái nào chín trước, tôi bẻ lấy,
trái chưa chín bèn đợi hai hôm sau”. Tôi nói: “Ông vẫn
chưa chín muồi, lại qua hai, ba đời sau, ông sẽ
chín muồi, sẽ được hái đi, chẳng phải
là không độ ông, mà do ông chưa chín muồi! V́ sao
chưa chín muồi? Thấy ông hời hợt, bộp chộp,
chẳng phục, [đương nhiên] biết ông chưa
chín muồi. Hễ chín, đức Phật sẽ đến
độ ông!” Đấy là lời thật, Phật độ
chúng sanh quả thật là như vậy. Căn cơ chín muồi
sẽ giúp cho quư vị thành Phật, chưa chín muồi sẽ
giúp quư vị chín muồi; nếu không có thiện căn, sẽ
giúp quư vị gieo thiện căn, chia ra khá nhiều tầng
lớp. Mỗi lần Ngài đến đều là độ
khắp ba căn, lợi căn lẫn độn căn
đều gồm thâu, thật sự chẳng sót một
ai! Hiện thời, trên thế giới này, rất nhiều
người chẳng tin Phật, bài xích Phật giáo, quư vị
nói xem Phật có độ họ hay không? Thảy đều
đắc độ. V́ sao? Trong đầu họ có một
chữ Phật, miệng họ có thể nói đến chữ
Phật. Đó là đắc độ, [do đă] có chủng
tử Phật trong A Lại Da Thức. Hủy báng Phật,
hăm hại Phật, trong tương lai thảy đều
được độ, kinh Đại Thừa thường
nói như thế!
Tiếp đó, [sách Chú
Giải] trích dẫn Pháp Hoa Văn Cú, Pháp Hoa Văn Cú do Trí
Giả đại sư soạn. “Kỳ tiên đại học đạo” (đời
trước học đạo), đây là nói về tổ
tiên của tôn giả Ca Diếp, tổ tiên Ngài học đạo,
“linh quy phụ tiên đồ
dĩ ứng, tùng đức mạng tộc, cố vân Quy
thị” (rùa thiêng
đội bản đồ của tiên ứng hiện. Tên
ḍng họ được đặt theo đức hạnh,
nên gọi là họ Quy). Có chuyện như thế đấy!
V́ thế, tổ tông của Ngài gọi bộ tộc của
ḿnh là Ca Diếp. Ca Diếp là tiếng Phạn. “Hựu vân Ẩm Quang, nhân ư Tỳ
Bà Thi Phật thời” (c̣n dịch là Ẩm
Quang v́ trong thời Tỳ Bà Thi Phật), đây là thời
gian xa xưa, Ngài là vị Phật thứ nhất trong bảy
vị Phật quá khứ. Trong thời Tỳ Bà Thi Phật
(Vipashyin), đức Thế Tôn (Thích Ca Mâu Ni Phật) là Bồ
Tát, đă có thành tựu kha khá. Từ kinh Phật, chúng ta
đọc thấy: Trước khi thành Phật, Bồ Tát
nhất định phải dùng thời gian một trăm
kiếp để tu tướng hảo. Đấy chẳng
phải là chấp tướng, tướng hảo thuộc
về phước báo, thành Phật là trí huệ. Trí huệ
viên măn, nhưng phước báo chưa viên măn sẽ không
được, khi quư vị độ chúng sanh sẽ có
chướng ngại. Nếu phước báo rất viên
măn, người ta trông thấy ai nấy đều ưa
thích quư vị, muốn tiếp xúc quư vị, sẽ độ
họ dễ dàng. Nếu vừa nh́n liền chán ghét, tránh xa
quư vị, quư vị chẳng thể độ họ
được! V́ thế, tướng hảo
là một loại phương tiện nhằm tiếp dẫn
chúng sanh. Quư vị thấy thị hiện kiểu ấy,
không ǵ khác, chỉ là thị hiện nhằm dạy chúng ta
chẳng thể không tu phước, phước huệ viên
măn mới gọi là Phật. Có huệ thiếu phước
chẳng được, có phước thiếu huệ
cũng không được, nhất định phải là
phước huệ viên măn, biểu thị ư nghĩa này.
Vào thuở
đó, tức nhằm thời Tỳ Bà Thi Phật, tôn giả
Ca Diếp “vi dă kim sư” (là
thợ luyện kim). Nay chúng ta gọi là người làm
đồ trang sức, giống như người hành nghề
làm các món trang sức bằng vàng hiện thời. Trên
đường phố Hương Cảng, chúng ta thường
thấy tiệm Châu Đại Phước bán đồ
trang sức, kinh doanh ngành vàng bạc, trang sức. Tôn giả
là thợ kim hoàn, “dữ nhất
bần nữ, cộng dĩ hoàng kim trang nghiêm Phật
tượng” (cùng một cô gái nghèo
dùng vàng ṛng trang hoàng tượng Phật). Dùng vàng ṛng
trang nghiêm tượng Phật, tức là thếp vàng, dùng những
mảnh vàng để thếp tượng Phật. “Tự nhĩ dĩ lai, cửu
thập nhất kiếp, thân như hoàng kim, quang sắc hoảng
diệu, yểm tế dư sắc, cố danh Ẩm Quang”
(Từ đấy trở đi, trong
chín mươi mốt kiếp, thân như vàng ṛng, quang sắc
chói ḷa che lấp các sắc khác nên gọi là Ẩm Quang).
Từ ấy tới nay, trong chín mươi mốt kiếp,
Ngài đạt được quả báo. Quư vị thấy:
Dùng vàng ṛng cúng dường Phật, cúng dường Phật
là ǵ? Trang hoàng tượng Phật, thếp vàng tượng
Phật. Hiện thời, tại Thái Lan, [tập quán này]
cũng rất phổ biến. Tại Thái Lan, đối với
những tượng Phật được thờ bên
ngoài chùa, bên cạnh có bán vàng lá, có rất nhiều người
đến mua, mua xong tự ḿnh thếp vàng, đấy là
do có điển cố vậy. V́ thế, tôn giả
được quả báo thân kim sắc, đắc quả
báo ấy. Kim sắc có quang minh, màu sắc, quang minh chói ngời,
rất mạnh, che lấp, phủ trùm các sắc khác; do
đó gọi là Ẩm Quang. Ẩm (飲) giống như nuốt, “quang thốn chư sắc, tức
Ẩm Quang nghĩa” (ánh sáng nuốt mất các sắc khác,
chính là ư nghĩa của chữ Ẩm Quang).
Ở
đây, trọng yếu nhất là ngài Ca Diếp biểu thị
Thiền Tịnh bất nhị. Trong kinh Đại Tập,
Thích Ca Mâu Ni Phật có nói một câu, xưng niệm một
câu Nam Mô A Di Đà Phật là tu ǵ? Chính là tu vô thượng
thâm diệu Thiền. Thích Ca Mâu Ni Phật bảo niệm Phật
là vô thượng thâm diệu Thiền. Mục tiêu chung cực
của Thiền là “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”;
mục tiêu chung cực của niệm Phật cũng là
điều ấy, chỉ là tới Tây Phương Cực
Lạc thế giới, trong hội của A Di Đà Phật
sẽ chứng đắc viên măn rốt ráo. Điều này
cũng có nghĩa là tu hành trong thế giới Sa Bà có quá nhiều
chướng duyên, quá nhiều chướng ngại, tam
căn thượng trung hạ đều chẳng có cách
nào hóa giải những chướng nạn và chướng
duyên ấy. Tới thế giới Cực Lạc sẽ chẳng
có chướng ngại, ở nơi ấy, mỗi ngày ở
cùng một chỗ với A Di Đà Phật, quư vị tiếp
xúc toàn là chư Phật Như Lai, chư thượng thiện
nhân. Chúng ta biết những vị thượng thiện
nhân là các Pháp Thân đại sĩ thuộc bốn
mươi mốt địa vị, những người
quư vị được tiếp xúc toàn là những người
như vậy. V́ sao biết toàn bộ đều là [thượng
thiện nhân]? Chính ḿnh cũng vậy! Sanh về thế giới
Cực Lạc đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát. A Duy
Việt Trí Bồ Tát chính là bốn mươi mốt địa
vị Pháp Thân đại sĩ. Tuy người ấy
chưa đoạn phiền năo, khi
chưa đoạn sẽ được trí huệ và oai thần
của A Di Đà Phật gia tŕ, nên trí huệ, thần thông
và đạo lực của người ấy chẳng
khác A Duy Việt Trí Bồ Tát, mang ư nghĩa này! Đó là pháp
khó tin!
Tiếp
đó, vẫn chưa giới thiệu xong. “Tôn giả, Đầu Đà hạnh đệ
nhất”, ư nghĩa này rất
trọng yếu. “Đầu
Đà giả, Phạn ngữ” (Đầu Đà (Dhuta) là tiếng Phạn), dịch sang
nghĩa tiếng Hán là Đẩu Tẩu, hoặc Đào Thải,
Đẩu Tẩu là ǵ? Khi trên thân chúng ta có tro bụi, lắc
ḿnh tro bụi bèn rơi rớt, v́ thế, cũng có
nghĩa là “đào thải”
(gạt bỏ). “Dĩ thập
nhị hạnh đào thải trần lao phiền năo” (dùng mười hai hạnh ấy để
trừ bỏ trần lao phiền năo), mười hai
hạnh ấy là khổ hạnh. Nói thật ra, tôn giả
Đại Ca Diếp sanh trong gia đ́nh phú quư, có địa
vị rất cao trong xă hội, là con em nhà giàu sang, nhưng
tu khổ hạnh, đại diện cho những người
tu khổ hạnh. Lúc diệt độ, đức Phật
cũng dạy chúng ta “lấy
khổ làm thầy, lấy giới làm thầy”, tôn giả
Ca Diếp là một tấm gương tốt.
Mười hai hạnh,
ở đây nói tới mười hai hạnh của Ngài,
thứ nhất là “trụ A Lan
Nhă”. A Lan Nhă (Aranya) là tiếng Phạn, dịch sang
nghĩa tiếng Hán là Tịch Tĩnh Xứ (nơi yên vắng).
A là Vô, Lan Nhă là nơi thanh tịnh, tức là nơi chẳng
ồn ào. Nơi chẳng bị hoàn cảnh bên ngoài quấy
nhiễu sẽ gọi là Lan Nhă. Vào thời cổ, nói chung,
tiếng kêu [của động vật] là âm thanh lớn nhất,
v́ nơi Phật hoạt động đều ở ngoài
thành, Ngài chẳng trụ trong đô thị, luôn ở núi, rừng,
bên bờ sông, những nơi ấy đều là nơi
đức Phật thường du hóa. Do trong nông thôn, xă hội
nông nghiệp nuôi gia súc, tiếng trâu kêu lớn nhất, Ngài
lấy điều này làm tiêu chuẩn. Nơi các Ngài ở
không nghe thấy tiếng trâu kêu trong thôn làng, cũng rất
an tĩnh, lấy chuyện này làm tiêu chuẩn; đấy
là “trụ Lan Nhă”.
Thứ hai là “thường hành khất thực”,
đây là phương cách sinh hoạt của họ, mỗi
ngày ra ngoài khất thực.
Thứ ba là “thứ đệ khất” (khất
thực theo thứ tự), cách khất thực b́nh đẳng.
Nhà này bố thí cúng dường quư vị một ít cơm,
không nhất định là đầy một bát, có người
chỉ cúng dường chút ít, chẳng hạn như cúng
dường chừng một muỗng, ít xịt, chắc chắn
chẳng đủ, sang khất thực ở nhà thứ
hai, nhà thứ hai vẫn chưa đủ, đến nhà thứ
ba. Đức Phật cho phép quư vị khất thực bảy
nhà. Bảy nhà không đủ, chẳng thể đến
nhà thứ tám. Đến nhà thứ tám là quư vị có tâm
tham. Nếu một nhà, hai nhà đă đủ, quư vị chẳng
thể đến nhà thứ ba. Đây là quy củ khất
thực, phải tuân theo quy củ này. Khất thực theo
thứ tự là b́nh đẳng.
Thứ
tư là “nhật trung nhất
thực” (giữa trưa ăn một bữa), mỗi
ngày chỉ có một lần ra ngoài khất thực.
Thứ năm là “tiết lượng thực”
(ăn có chừng mực); bởi lẽ, Phật pháp thật
sự là pháp b́nh đẳng. Khất thực trong Phật
pháp, xin được một bát cơm có phải là xin
được bèn ăn ngay hay không? Vừa đi vừa
ăn trông không đẹp mắt, chắc chắn người
ta sẽ coi thường quư vị. Sau khi xin xong, trở về
tăng đoàn, chẳng hạn như cùng tụ tập
dưới cội cây, dồn cơm chung lại, sau đó,
chính ḿnh cần bao nhiêu bèn xớt lấy bấy nhiêu, ăn
có chừng mực. Do vậy, đúng như cổ nhân Trung
Quốc đă nói: “Nhất bát
thiên gia phạn” (một bát cơm ngàn nhà), chẳng phải
là giả. Quư vị thấy chúng thường trụ trong tăng
đoàn, Thường Tùy Chúng một ngàn hai trăm năm
mươi lăm người, kể thêm Thích Ca Mâu Ni Phật
thành một ngàn hai trăm năm mươi sáu người,
thảy đều ra ngoài khất thực, đúng là
“cơm ngàn nhà”, khi trở về, dồn chung một chỗ,
lợi ḥa đồng quân! Quư vị xin được bát
cơm ngon, người kia xin được cơm dở
hơn một chút, gộp chung lại, thực hiện lợi
ḥa đồng quân, là tăng đoàn Lục Ḥa Kính.
Thứ sáu, “quá trung bất ẩm
tương”, điều này chẳng thể hiểu là
giờ Ngọ, v́ nếu hiểu là giờ Ngọ sẽ
không thích đáng. “Quá trung” là
sau giữa trưa, nếu hiểu là giờ Ngọ th́ tại
Trung Quốc giờ Ngọ từ mười một giờ
sáng đến một giờ chiều. Hơn nữa, thời
gian giữa trưa mỗi ngày khác nhau, phải sai lệch
vài phút, sai lệch từ ba đến bốn phút, mỗi
ngày đều có chênh lệch. Trước kia, dùng Nhật
Quỹ (Sundial, đồng hồ mặt trời) để
đo bóng nắng coi khi nào là giữa trưa. Hiện thời
th́ sao? Hiện thời, đài thiên văn phát hành nhật lịch,
tức thiên văn nhật lịch (astronomical almanac), mỗi
ngày đều ghi chép rất rơ ràng, giữa trưa ngày hôm
nay là mấy giờ, mấy phút, mấy giây. “Quá trung bất ẩm
tương” (sau giữa trưa không được uống
chất tương), có thể uống nước,
Tương (漿) là ǵ? Có chất
trầm lắng, như sữa ḅ, hoặc nói như người
Trung Quốc là sữa đậu nành, loại này có chất
trầm lắng. Nước đường th́ được,
nước đường chẳng trầm lắng, mật
ong pha với nước, có thể dùng. Sau giữa trưa,
hết thảy những thứ trầm lắng đều
không ăn.
Thứ bảy,
“trước phấn tảo y”
(mặc áo phấn tảo), phấn tảo y (糞掃衣) là ǵ? Quần áo của người khác
đă mặc rách, chẳng cần nữa, vứt đi, quư
vị nhặt lấy, lượm lấy những thứ
nhất định c̣n có thể dùng, lọc ra, những chỗ
rách nát không thể dùng bèn cắt bỏ, chỗ có thể
dùng th́ giữ lại, trong tương lai, đă gom góp
được khá nhiều, bèn chằm từng miếng lại;
đấy chính là ca-sa hiện thời. Với những miếng
vải nhỏ th́ quư vị may được y hai
mươi lăm điều, miếng lớn th́ may y bảy
điều, hoặc y năm điều. V́ thế, y sau khi
may xong phải đem nhuộm màu. Chẳng nhuộm màu sẽ
rất khó coi, chất liệu khác nhau, màu sắc khác nhau.
Nhuộm cho chúng có cùng màu là được rồi. Nhuộm
thành màu cà-phê nên gọi là “nhiễm
sắc y”.
Thứ tám, “đản tam y” (chỉ có ba
y), Ấn Độ là xứ nhiệt đới, không có bốn
mùa, chỉ có một mùa, nên ba y là đủ rồi. Buổi
tối nghỉ dưới gốc cây, ba y có thể dùng làm
mền đắp giữ ấm, đến sáng, khi đi
khất thực, khất thực là một môn công khóa trọng
yếu, cho nên phải mặc lễ phục, ba y đều
phải khoác trên thân. B́nh thường, ở trong đoàn thể,
nghe kinh bèn đắp y bảy điều là được
rồi. Khi làm việc, đắp y năm điều, một
cái y năm điều là đủ rồi. V́ thế, y
năm điều được gọi là “công tác y”, tức quần áo lao động.
Thứ chín là “trủng gian tọa” (ngồi
nơi mồ mả), “trủng”
(塚) là phần mộ, đến nơi nào
để tọa Thiền? Đến bên cạnh mộ phần,
để quư vị thường nghĩ đến cái chết,
có thể giúp quư vị buông xuống vạn duyên, buông tham,
sân, si, mạn xuống, Ngài chọn nơi ấy để
ngồi.
Thứ mười là “thụ hạ túc” (nghỉ
dưới cội cây), buổi tối, lúc nghỉ ngơi
bèn ở dưới cội cây.
Thứ mười một
là “lộ địa tọa”
tức ngồi nơi trên mặt đất.
Thứ mười hai
là “đản tọa bất ngọa”
(chỉ ngồi không nằm), trong Phật môn gọi là “bất đảo đơn”
(chẳng ngả ḿnh xuống đơn). Lúc nghỉ
ngơi bèn ngồi, tĩnh tọa, chẳng nằm xuống
ngủ.
“Dĩ tư khổ hạnh, tảo trừ trần lụy,
trừng tịnh thân tâm, Ca Diếp niên lăo, bất xả
Đầu Đà. Phật mẫn kỳ suy, khuyến mạng
hưu tức, Ca Diếp Đầu Đà như cố” (Dùng các khổ hạnh ấy để
quét sạch trần lụy, lắng trong thân tâm. Ca Diếp
tuổi già chẳng bỏ hạnh Đầu Đà. Đức
Phật thương Ngài suy yếu, khuyên hăy thôi nghỉ, Ca
Diếp vẫn giữ hạnh Đầu Đà như
cũ). Đến lúc tuổi già, đức Phật khuyên
Ngài chẳng cần tu khổ hạnh như vậy,
nhưng ngài Ca Diếp vẫn chẳng thay đổi, suốt
đời tu khổ hạnh nêu gương tốt cho các
đồng học. Mọi người thấy vậy đều
phấn chấn tinh thần, sốt sắng, nỗ lực
tu hành. “Phật năi thâm tán vân: ‘Hữu
Đầu Đà hạnh, ngă pháp cửu tồn’. Cố vân
Đầu Đà đệ nhất” (đức Phật
bèn ca ngợi sâu xa: “Có hạnh Đầu Đà, pháp của
ta sẽ tồn tại lâu dài”. V́ thế, Ngài được
gọi là bậc Đầu Đà đệ nhất). Do vậy,
trong di giáo dạy bảo các đệ tử đời
sau, đức Phật chỉ nói hai câu: “Lấy giới làm thầy, lấy khổ làm thầy”.
Giới được đặt vào hàng thứ nhất,
v́ sao? Không có giới, Phật pháp sẽ tiêu diệt.
V́ thế,
quư vị lắng ḷng tư duy sẽ biết, hiện thời
chúng ta tu hành bị chướng ngại chỗ nào? Do chính
ḿnh tạo tác, chẳng có người nào khác chướng
ngại chính ḿnh. Thật sự muốn Phật pháp hưng
vượng, mà chẳng tuân thủ lời răn dạy của
Phật Đà, sẽ chẳng có cách nào thành tựu. V́ thế,
trong Kim Cang Kinh Giảng Nghĩa, lăo cư sĩ Giang Vị
Nông vẫn đề xướng khất thực; trong quá
khứ, tôi giảng kinh Kim Cang có tham khảo bộ Giảng
Nghĩa của cụ. Hiện thời, có thể khất
thực hay không? Có thể, nhưng chắc là chẳng thể
nào khất thực theo thứ tự được! Ở
Hương Cảng, quư vị đi khất thực bảy
nhà, sợ rằng chẳng có ai cúng dường quư vị.
Nếu quư vị đi hết một con đường,
có lẽ sẽ gặp được một người,
người học Phật ở Hương Cảng chẳng
ít. Thật sự học Phật, sẽ có long, thiên, thiện
thần, Phật, Bồ Tát gia hộ, quư vị sẽ gặp
người thiện tâm tới cúng dường quư vị.
Nói chung, phải h́nh thành một phong khí mới được,
sẽ bớt nhiều việc lắm; nhưng chúng ta ở
nơi này thuộc vùng ôn đới, chẳng phải là nhiệt
đới, ba y chẳng đủ. V́ thế, Phật pháp
truyền tới Trung Quốc, ba y tại Trung Quốc hoàn
toàn biến thành lễ phục. Người Trung Quốc vẫn
mặc y phục của chính ḿnh. Áo hải thanh rộng tay
chính là y phục đời Hán. Phật giáo được
truyền vào từ đời Hán, vẫn y như cũ ǵn
giữ trang phục đời Hán, điều này rất tốt.
Áo rộng tay to là lễ phục của chúng ta. B́nh thường
chúng ta mặc “trường quải” (áo tràng tay hẹp,
áo nhật b́nh) là y phục đời Minh, làm việc khá thuận
tiện, áo hải thanh đời Hán dùng làm lễ phục.
Trong khi làm Phật sự, cũng như trong học tập,
về phương diện lễ tiết, chúng ta đắp
y. Y ấy là y hai mươi lăm điều, là đại
lễ phục, y bảy điều là lễ phục thông
thường, b́nh thường. Y ấy (y hai mươi
lăm điều) là đại lễ phục, khi giảng
kinh, lên lớp là đại lễ, bèn mặc lễ phục
đại lễ. Khi lạy Phật là đại lễ.
B́nh thường, trong sinh hoạt hằng ngày, ăn
cơm, y bảy điều là được rồi. Tiếp
đăi tân khách th́ thông thường y bảy điều là
được rồi. Đó là lễ phục chia theo đẳng
cấp. Y năm điều là quần áo lao động,
nhưng tại Trung Quốc đă chẳng c̣n thích hợp,
chỉ giữ lại làm kỷ niệm, chẳng thích hợp
để sử dụng. V́ thế, Phật pháp sống
động, hoạt bát, trọn chẳng khô khan. Như tôn
giả Ca Diếp v́ chúng ta thị hiện mười hai hạnh
Đầu Đà ấy, có những điều chúng ta có thể
làm được, có những điều không bắt buộc
[phải làm theo], sống động, cũng chẳng chết
cứng. Nhưng chúng ta phải hiểu dụng ư của
Ngài ở chỗ nào, v́ sao Ngài phải làm theo cách như vậy?
Thật sự quét sạch trần lụy, lắng trong thân
tâm, phương pháp ấy rất có hiệu quả.
Đoạn
tiếp theo là “vưu ưng
thâm tỉnh giả” (càng phải nên phản tỉnh sâu
xa), chúng ta càng phải nên phản tỉnh sâu xa. “Đại Ca Diếp tôn giả,
tức truyền Phật tâm ấn chi Thiền Tông Sơ Tổ”
(tôn giả Đại Ca Diếp là Sơ Tổ Thiền
Tông truyền tâm ấn của Phật), công án và điển
cố này xuất phát từ quyển thứ ba của bộ
Đại Phạm Thiên Vương Vấn Phật Quyết
Nghi Kinh, [điển cố] “niêm
hoa vi tiếu” (giơ cành hoa, mỉm cười) xuất
phát từ kinh ấy. “Phạm vương
chí Linh Sơn” (Phạm vương đến Linh
Sơn), Đại Phạm thiên vương, Linh Sơn là
núi Kỳ Xà Quật thuộc thành Vương Xá, “dĩ kim sắc Bát La hoa hiến
Phật” (dùng hoa sen[5] sắc vàng dâng lên đức Phật),
dùng hoa cúng dường Phật. “Xả
thân vi ṭa” (xả thân làm ṭa), Đại Phạm
Vương cũng đến biểu diễn pháp. Nếu
chẳng phải là cổ Phật tái lai th́ tối thiểu
là Thập Địa Bồ Tát, tức Pháp Vân Địa Bồ
Tát tới biểu diễn. “Xả
thân vi ṭa”, quư vị thấy thiên vương rất cung
kính đức Phật, thỉnh Phật ngồi trên người
ông ta. “Thỉnh Phật vị
chúng sanh thuyết pháp” (xin đức Phật hăy v́ chúng
sanh mà thuyết pháp), Đại Phạm Vương chẳng
phải là người thường. “Thế Tôn đăng tọa, niêm hoa thị chúng”
(đức Thế Tôn lên ṭa, cầm cành hoa giơ lên cho
đại chúng thấy), đức Thế Tôn cũng cho
ông ta được măn nguyện liền ngồi đôi chút,
chẳng thể ngồi quá lâu. Ngồi quá lâu là chẳng
thông hiểu nhân t́nh. Do có vấn đề t́nh người
trong ấy, nên thời gian càng ngắn càng hay. Được
thỉnh thuyết pháp, đức Phật bèn giơ cành hoa
lên, hoa ấy là ǵ? Chính là đóa hoa do Đại Phạm
Thiên Vương cúng dường, “niêm hoa thị chúng”, đưa lên cho mọi
người xem. “Nhân thiên bách vạn”
(trời và người trăm vạn), người chẳng
đông lắm, nhưng thiên thần đông đảo, do
các Ngài theo Đại Phạm Vương đến nơi
ấy. “Tất giai vơng thố”
(thảy đều ngơ ngác), mọi người chẳng
hiểu ư nghĩa cầm hoa của đức Phật, chẳng
ai biết! “Độc hữu
Kim Sắc Đầu Đà phá nhan vi tiểu” (chỉ
ḿnh Kim Sắc Đầu Đà lộ vẻ mỉm cười),
chỉ có tôn giả Ca Diếp mỉm cười. “Thế Tôn vân: Ngô hữu chánh pháp
nhăn tàng, Niết Bàn diệu tâm, Thật Tướng vô
tướng, vi diệu pháp môn, phó chúc Ma Ha Ca Diếp” (đức
Thế Tôn nói: “Ta có chánh pháp nhăn tàng, diệu tâm Niết Bàn,
Thật Tướng vô tướng, pháp môn vi diệu, phó
chúc Ma Ha Ca Diếp”). Đức Phật trao cành hoa ấy
cho ngài Ca Diếp; đây là công án đầu tiên trong Thiền
Tông. Tôn giả Ca Diếp lộ vẻ mỉm cười
là v́ Ngài đă hiểu rơ, minh bạch, khai ngộ, từ một
động tác của đức Thế Tôn, Ngài bèn đại
triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Về sau,
Ngài truyền y bát của Thích Ca Mâu Ni Phật. Thoạt
đầu, Thích Ca Mâu Ni Phật truyền cho Ca Diếp chẳng
phải là y bát, mà là đóa hoa do Đại Phạm
Vương cúng dường. Đấy là công án “niêm hoa vi tiếu”.
Tiếp
đó, sách viết: “Thử tức
thế truyền chi niêm hoa công án. Thế Tôn truyền tâm
ư Ca Diếp, vi Thiền Tông Sơ Tổ, Ca Diếp tái
truyền ư A
Tập 90
“Tôn giả A Nan đẳng,
Đường, Tống dịch tác A Nan Đà, lược
xưng A Nan, dịch viết Khánh Hỷ, Hoan Hỷ, hựu
vân Vô Nhiễm, năi Bạch Phạn Vương chi tử, Phật
chi đường đệ dă. Sanh ư Phật thành đạo
nhật, Tịnh Phạn Vương kư văn Thái Tử
thành Phật, hựu văn cung trung đản tử, cánh
tăng hoan hỷ, năi viết: ‘Kim nhật đại cát, thị
hoan hỷ nhật’. Ngữ lai sứ ngôn, thị nhi
đương tự vi A Nan” (“Tôn giả A Nan v.v...”: Đời Đường, Tống
dịch là A Nan Đà (Ānanda),
gọi tắt là A Nan, Hán dịch là Khánh Hỷ, Hoan Hỷ,
c̣n dịch là Vô Nhiễm. Ngài là con của vua Bạch Phạn
(Śuklodana),
em họ của Phật, sanh nhằm ngày Phật thành đạo.
Vua Tịnh Phạn (Śuddhodana) nghe tin Thái Tử thành Phật,
lại nghe trong cung sanh con trai càng thêm hoan hỷ, bèn phán: “Hôm
nay đại cát, là ngày hoan hỷ”, bảo với sứ giả:
“Đứa trẻ ấy nên đặt tên là A Nan”). Chúng ta xem tới
đây. Ở đây, sau “tôn giả
A Nan” có chữ Đẳng (等), Đẳng là c̣n có những người
khác, v́ trong năm bản dịch gốc, bản kể tên
nhiều nhất có hơn ba mươi vị, khi cụ Hạ
hội tập, đă chọn lấy những vị mang
tính chất biểu thị pháp trọng yếu, những vị
khác đều tỉnh lược; v́ thế, dùng chữ
Đẳng. Bản Đường dịch và Tống dịch
đều phiên âm là A Nan Đà, Đà là âm cuối, người
Trung Quốc, đặc biệt là cổ nhân Trung Quốc
chuộng đơn giản, nên lược bớt âm cuối.
Giống như chữ Phật, sau chữ Phật có âm cuối,
tức Phật Đà Da, âm cuối cũng bị tỉnh
lược. V́ thế, gọi gọn là A Nan, dịch sang
nghĩa tiếng Hán là Khánh Hỷ, hoặc Hoan Hỷ,
cũng có nghĩa là Vô Nhiễm, Ngài là con của vua Bạch
Phạn. Cha của đức Thế Tôn là vua Tịnh Phạn
có bốn anh em, mỗi người đều có hai con trai.
V́ thế, Phật Thích Ca có tám người anh em họ.
Trong số tám người anh em họ, đức Phật
lớn nhất, A Nan nhỏ nhất, đứng vào hàng thứ
tám. A Nan sanh nhằm ngày đức Phật thành đạo,
Thích Ca Mâu Ni Phật ba mươi tuổi thành đạo,
người em này nhỏ hơn đức Phật ba
mươi tuổi, v́ đức Phật thành đạo
lúc ba mươi tuổi. Sanh nhằm ngày hôm ấy, cũng
là ngày đức Phật thành đạo, tin vui báo về
hoàng cung, vua Tịnh Phạn nghe tin Thái Tử thành Phật,
chứng quả, lại nghe trong cung sanh ra đứa bé này,
là em họ của đức Phật, tức là cháu trai của
nhà vua, nên vô cùng hoan hỷ. Vua bèn nói: “Hôm nay là ngày đại
cát, là ngày hoan hỷ”, bảo người đến báo tin:
“Đứa bé ấy nên đặt tên là A Nan”, tức A Nan
Đà, mang ư nghĩa hoan hỷ.
“Hựu tôn giả đoan chánh,
thanh tịnh, như hảo minh kính, kiến kỳ tướng
giả, văn kỳ thanh giả, đổ kỳ oai nghi
giả, mạc bất hoan hỷ, cố dĩ vi danh”
(Hơn nữa, tôn giả đoan chánh, thanh tịnh như tấm
gương trong vắt. Trông thấy h́nh dạng Ngài, nghe tiếng
Ngài, xem oai nghi của Ngài, không ai chẳng hoan hỷ, nên
đặt tên như vậy). Cái tên này vô cùng thích hợp. A
“Đẳng
giả, Ngụy dịch trung liệt tam thập nhất
nhân” (Chữ “đẳng”: Trong bản Ngụy
dịch nêu tên ba mươi mốt vị [Thượng Thủ]),
đấy là bản dịch của ngài Khang Tăng Khải
đời Ngụy, kể tên ba mươi mốt vị
Thượng Thủ; trong quá khứ, bản này lưu thông
rộng nhất. Trong năm bản dịch gốc, bản
dịch này hoàn bị nhất, phiên dịch rất khá; v́ thế,
mọi người học tập kinh Vô Lượng Thọ
đều dùng bản này. Trong quá khứ, tôi học bộ
kinh này tại Đài Trung, thầy Lư giảng từ đầu
đến cuối một lần, giảng bản dịch
của ngài Khang Tăng Khải. Lần đầu tiên Ngài
giảng chỉ dùng bản của lăo cư sĩ Hạ
Liên Cư. Lần thứ hai chỉ dùng bản của ngài
Khang Tăng Khải. “Kim hội
bản cẩn liệt cử kỳ trung Thượng Thủ
ngũ nhân chi danh, cố viết A Nan đẳng, dĩ khái
kỳ dư” (nay bản hội tập
chỉ nêu tên năm vị Thượng Thủ trong số ấy,
nên viết là “A Nan đẳng” để chỉ chung các vị
c̣n lại), những vị khác đều
tỉnh lược, [nêu tên năm vị như đă nói
trên] nhằm biểu thị pháp. Trong pháp môn này, A Nan biểu
thị niệm Phật là đa văn đệ nhất.
Chúng ta chớ nên không biết ư nghĩa này. Học rộng nghe nhiều liên quan ǵ với
niệm Phật? Có liên quan! Niệm Phật mà có thể niệm
tới mức đạt Niệm Phật tam-muội,
đấy là nhập Định, đă đắc Thiền
Định. Sau khi đắc Thiền Định, công phu
định lực đạt tới một tŕnh độ
nhất định, hoát nhiên đại ngộ, người
ấy sẽ khai ngộ. Sau khi khai ngộ sẽ là đa
văn, đối với các kinh, quư vị chưa từng
nghe, vừa nghe liền hiểu rơ, vừa đọc liền
hiểu rơ. V́ thế, sáu căn vừa tiếp xúc bèn thông
đạt; đó đúng là đa văn bậc nhất!
Đối với trường hợp
này, chúng ta không nói đến các đệ tử đức
Thế Tôn, mà nh́n vào Thiền Tông Lục Tổ Huệ
Năng thuộc đời Đường của Trung Quốc,
đó là một thí dụ rất hay. Ngài chưa nghe kinh, Huệ
Năng đại sư không biết chữ,
đương nhiên chẳng thể đọc kinh,
nhưng Ngài nghe [liền hiểu]. Quư vị thấy người
đầu tiên gặp Ngài là tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng.
Vị tỳ-kheo-ni này suốt đời thọ tŕ kinh
Đại Niết Bàn. Kinh Đại Niết Bàn phân lượng
cũng rất nhiều, có hai loại bản dịch: Một
là bản bốn mươi quyển, hai là bản ba
mươi sáu quyển[6]. Sau khi được truyền y bát, thầy
bảo Huệ Năng đại sư hăy đi lánh nạn,
ẩn cư, đi xuống phương
Huệ Năng đại
sư chưa từng đọc kinh, đi bán củi ngẫu
nhiên nghe có người đọc kinh, Ngài ở ngoài cửa
sổ nghe tiếng đọc kinh bên trong, nghe rất hoan hỷ.
Đứng nghe một hồi lâu, nghe xong, tiến vào gơ cửa.
Vị cư sĩ đọc kinh ấy mở cửa, gặp
Ngài, giảng cho Ngài nghe ư nghĩa của bản kinh Ngài vừa
mới nghe, Ngài nghe xong, vô cùng kinh ngạc. Vị lăo cư
sĩ ấy cũng chẳng phải là phàm nhân, tṛ chuyện
cùng Ngài, nhận biết Ngài, nói theo cách chúng ta bây giờ là
“thiện căn thật sự sâu dầy, chẳng phải
là phàm nhân”, bèn khuyên Ngài đến Hoàng Mai[7], bái ḥa thượng Ngũ Tổ Nhẫn
[làm thầy]. Ngài kể với ông ta t́nh cảnh khó khăn
của chính ḿnh: Trong nhà c̣n mẹ già, mỗi ngày phải cậy
vào Ngài bán củi để sống qua ngày; Ngài ra đi, sẽ
không có ai chăm sóc mẹ già. Vị cư sĩ ấy hết
sức nhiệt tâm, mời mấy đồng tu họp lại,
[quyên góp], tặng cho Ngài mười lượng bạc
để làm chi phí lo liệu việc nhà: “Mẹ anh đă
có người chăm sóc”. Ngài bèn yên tâm ra đi, đến
núi Hoàng Mai ở tám tháng, chẳng hề bước vào giảng
đường, cũng chẳng vào Thiền đường.
Lăo ḥa thượng chỉ giao cho Ngài công việc giă gạo
và chẻ củi trong xưởng xay gạo. Đó là việc
chính của Ngài, đúng với nghề cũ, bảo Ngài
làm công quả suốt tám tháng. Tới khi truyền pháp lại
nghiễm nhiên truyền cho Ngài, chẳng ai ngờ được!
Truyền pháp vào một đêm khuya, nửa đêm canh ba
trong phương trượng thất, hai Ngài là “tâm tâm tương ấn”[8]. Nhẫn ḥa thượng giảng đại
ư kinh Kim Cang cho Ngài nghe, chắc chắn không dùng đến
sách, chúng tôi phỏng đoán chẳng thể lâu hơn hai giờ,
giảng đến câu “ưng
vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm”, Ngài bèn khai ngộ. Một
ngộ, toàn bộ thông, hết thảy các pháp thế gian và
xuất thế gian đều thấu suốt. Quư vị chỉ
cần đem kinh điển nhà Phật đọc cho Ngài
nghe, Ngài có thể giảng cho quư vị nghe. Há chẳng phải
là đa văn đệ nhất ư? Bí quyết trong sự
truyền pháp của Phật pháp là ở chỗ này,
nhưng quư vị phải có căn bản. Quư vị thấy
đó: Do Giới đắc Định, do Định khai
Huệ.
Trong một đời
này, có thể nói là chúng tôi nhận thấy sau khi Kháng Chiến
nổ ra, trong thời chiến tranh, từ lúc chiến tranh
bắt đầu măi cho đến hiện thời, trong Phật
môn, bất luận tại gia hay xuất gia chẳng có ai
khai ngộ. Lăo pháp sư Đàm Hư đă nói lời này,
thuở trước, tại Hương Cảng, cụ
Đàm Hư là học tṛ của lăo pháp sư Đế
Nhàn, suốt đời cũng là pháp sư giảng kinh.
Ngài sáng lập Trung Hoa Phật Giáo Đồ Thư Quán tại
Hương Cảng. Năm 1977, tôi giảng kinh Lăng
Nghiêm suốt hai tháng tại đó. Tôi giảng tất cả
bốn tháng, hai tháng sau, tôi giảng tại giảng
đường Quang Minh của lăo ḥa thượng Thọ
Dă tại đường Lam Đường (Blue Pool road),
Hương Cảng, giảng suốt hai tháng. Cụ Đàm
nói cả đời Ngài chưa nghe nói có ai khai ngộ,
đắc Định th́ có như lăo ḥa thượng
Hư Vân đắc Định, đắc Thiền Định,
nhưng chưa nghe nói có ai khai ngộ. Trong thời đại
hiện tại, lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ bảo
tôi: “Ngay cả tu Thiền đắc
Định cũng chưa hề nghe nói có ai!” Đối với
chuyện học Mật th́ cụ là Kim Cang Thượng
Sư bên Mật Tông. Cụ bảo tôi, từ thời Kháng
Chiến măi cho đến nay, trước lúc văng sanh, cụ
nói với tôi như vậy, người học Mật Tông
tại Trung Quốc thành tựu, tam mật tương ứng
chỉ có sáu người! V́ vậy, cụ bảo tôi: “Từ nay về sau, chẳng có cách nào học Mật và học
Thiền, chẳng thể thành tựu. Thật sự có thể
thành tựu chỉ có pháp môn Niệm Phật”. Bởi vậy,
lúc lăo nhân gia văng sanh, thân thể chẳng khỏe lắm, cụ
cho tôi biết mỗi ngày cụ niệm mười bốn
vạn câu Phật hiệu, chuyên niệm A Di Đà Phật,
ngày đêm chẳng gián đoạn. Hễ mệt mỏi
bèn nghỉ ngơi đôi chút, mỗi ngày là mười bốn
vạn câu, lúc lâm chung cũng biết trước khi mất.
Quư vị thấy học Thiền, học Mật, nhưng
đến lúc khẩn yếu sẽ thảy đều
buông xuống, chỉ giữ một câu A Di Đà Phật.
Đấy là lăo nhân gia thị hiện cho chúng ta.
Chúng ta sanh nhằm thời Mạt
Pháp, hiện thời chưa phải là lúc cuối cùng của
thời Mạt Pháp, Mạt Pháp hăy c̣n chín ngàn năm nữa.
Trong chín ngàn năm ấy, Phật pháp có lúc hưng thịnh,
có khi suy vi, lên xuống như h́nh sóng. Trước kia,
Chương Gia đại sư đă bảo tôi điều
ấy. Hiện thời, suy đến cùng cực, có người
tu hành thật sự hay không? Chúng tôi tin chắc là có! Tuy
không ai biết, nhưng có người chân tu. V́ sao biết?
Nếu không có người tu hành chân chánh, người tu
hành chân chánh có đại phước báo, chúng sanh trên địa
cầu tạo nghiệp nhiều dường ấy,
nhưng người tu hành chân thật có thể khống chế khiến địa cầu
chẳng đến nỗi bị hủy diệt, đó là
người có đại phước đức. Chúng ta chẳng
biết những người ấy, họ ở trong núi
sâu, không có duyên th́ quư vị gặp gỡ cũng chẳng
thể thấy. Trong tương lai, Phật giáo lại
hưng thịnh. Hưng thịnh trong tương lai, chẳng
phải là Thiền hay Mật, mà là Giáo. Trong Giáo, chúng ta biết,
có thể là Tịnh Tông hưng vượng nhất. Trong
kinh Đại Tập, Thích Ca Mâu Ni Phật đă dạy
chúng ta điều ấy, Ngài thọ kư, người hiện
thời bảo là “dự ngôn”, thời kỳ Mạt Pháp Tịnh
Độ thành tựu. Thời kỳ Chánh Pháp, Giới
Luật thành tựu; thời kỳ Tượng Pháp, Thiền
Định thành tựu, và thời kỳ Mạt Pháp, Tịnh
Độ thành tựu.
Kinh Vô
Lượng Thọ là kinh điển trọng yếu trong
Tịnh Độ, là kinh điển căn bản của
Tịnh Tông như vậy, nhưng trước nay chẳng
có một bản tiêu chuẩn, đấy là điều khiến
cho những người tu học pháp môn này từ xưa
đến nay đều cảm thấy tiếc nuối.
Phiên dịch thật nhiều, trong hết thảy các kinh,
chẳng có kinh nào có nhiều bản dịch như kinh này,
tới mười hai bản dịch! Từ đời Hán
đến đời Bắc Tống có mười hai lần
phiên dịch trong khoảng tám trăm năm, nhưng những
bản dịch ấy nay chỉ c̣n giữ được
năm loại, thất truyền bảy loại, rất
đáng tiếc! Gộp chung năm bản dịch lại
để xem, trong ấy sai biệt rất lớn. V́ thế,
cổ đại đức phán đoán, không phải chỉ
có một bản gốc. Nh́n vào năm bản dịch gốc
hiện thời, nguyên bản tiếng Phạn tối thiểu
phải có ba loại, nên các Ngài đoán định thuở
Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, tối thiểu phải
giảng kinh Vô Lượng Thọ ba lượt, cho nên có
ba phiên bản khác nhau. Hăy c̣n bảy thứ thất truyền,
nếu thật sự có thể t́m được bảy
loại ấy, rất có thể là sẽ phát hiện bản
gốc c̣n nhiều hơn nữa! Điều này cho thấy
Thích Ca Mâu Ni Phật thuở tại thế, mỗi kinh chỉ
giảng một lần, chẳng giảng lần thứ
hai, nhưng kinh này tối thiểu giảng ba lượt,
từ ba lượt trở lên. Nhiều lần tuyên giảng,
cho thấy kinh này trọng yếu. Thời Mạt Pháp tính
đến sau này, hăy c̣n có chín ngàn năm nữa, kinh này có thể
độ hết thảy chúng sanh thành tựu trong một
đời, chẳng tuyệt lắm ư?
V́ vậy, các vị
đại đức xưa nay đều có ư nghĩ phải
hội tập. Người hội tập đầu tiên
là cư sĩ Vương Long Thư, là người đời
Tống. Người hội tập thứ hai là cư
sĩ Ngụy Mặc Thâm trong niên hiệu Hàm Phong nhà Thanh
trước kia. Cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập
lần thứ ba, v́ hội tập không dễ dàng. Những
điều được chọn giữ lại hay bỏ
đi từ năm bản dịch gốc là đại học
vấn, biên tập cũng là học vấn. Những bản
hội tập trong quá khứ, chọn lọc, biên tập
đều chưa được viên măn cho lắm, đều
có những điểm đáng tiếc nuối. Lăo cư
sĩ Hạ Liên Cư bỏ ra mười năm công phu, hội
tập trọn ba năm, bế quan ba năm, chỉnh lư
thành một bản hội tập. Sau đấy, lại tốn
thời gian bảy năm, qua mười lần san đính,
tạo thành bản hoàn thiện cuối cùng. Bản chúng ta
thấy hiện thời là bản hoàn thiện cuối cùng.
Những bản biên soạn lúc đầu, chúng ta c̣n t́m
được. Bản đầu tiên là bản hoàn thành sau
ba năm, cụ Hạ bế quan ba năm hoàn thành bản hội
tập. Gần đây, chúng tôi cũng ấn hành bản ấy
để làm kỷ niệm cho các đồng học. Bản
gốc là ba mươi bảy phẩm, bản hiện thời
chúng ta đang đọc là bốn mươi tám phẩm.
Trong lời tựa, cụ Mai Quang Hy cho biết, thuở ấy,
lăo pháp sư Từ Châu đă giảng bản hội tập
tại Bắc Kinh, Ngài cũng giảng tại Tế Nam, lại
c̣n soạn khoa phán. Đó là bản ba mươi bảy phẩm
thuở ấy, chẳng phải là bản hiện tại.
Đối chiếu hai bản ấy, chúng ta biết lăo
cư sĩ Hạ Liên Cư đă thật sự dụng
tâm khổ nhọc, ta thấy ḷng kiên tŕ, cảnh giới,
cũng như văn tài của cụ, cuối cùng đă
biên soạn thành một bản kinh viên măn, soạn thành một
bản kinh tiêu chuẩn.
Cụ
đă giảng bản ấy một lần, học tṛ cụ
là lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ cũng giống như
A Nan, đă nghe thầy giảng, lại c̣n ghi bút kư tỉ mỉ.
Cụ bảo tôi, trong cách mạng Văn Hóa, bản bút kư ấy
bị [Hồng Vệ Binh] vứt bỏ. V́ thế, khi viết
bản [Chú Giải] này, cụ hoàn toàn dựa vào kư ức,
tham khảo hơn một trăm loại kinh, luận, chú
giải, trích dẫn những lời chú giải trong ấy,
biên soạn thành một bản chú giải kinh hoàn thiện.
Chúng ta có phước báo, có duyên phận, ngày nay có thể gặp
gỡ, vô cùng khó có! Tôi và kinh này quả thật có duyên phận,
vừa thấy liền hoan hỷ, hết sức hoan hỷ,
trong quá khứ đă giảng mười lượt, lần
này là lần thứ mười một. Lần thứ
mười một bèn quyết định chọn Vô Lượng
Thọ Kinh Chú Giải, giảng bản chú giải của cụ,
khiến cho chúng ta lư giải Tịnh Tông càng thâm nhập
hơn, mới có thể phát khởi tâm nguyện cầu
sanh Tịnh Độ, chẳng c̣n nghi hoặc, thâm nhập
một môn, huân tu lâu dài, lẽ đâu chẳng thành tựu!
Người trẻ tuổi hạ quyết tâm dùng thời
gian mười năm để bài trừ hết thảy
khó khăn. Khó khăn là ǵ? Là xóa bỏ vọng niệm,
chuyên dốc công sức nơi một môn, sau mười
năm, quư vị sẽ là đệ tử truyền thừa
Tịnh Tông của đức Thế Tôn, là đệ tử
bậc nhất của Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngài Kiều Trần
Như đă biểu thị pháp ở chỗ này. Đời
này, chúng ta đến thế gian này đáng giá, làm những
chuyện khác đều là giả, làm chuyện này là thật.
Hăy nghiêm
túc học tập cư sĩ Lưu Tố Vân, bà ta đă
đem lại ḷng tin cho mọi người chúng ta. Tới
lúc năm mươi lăm tuổi bà ta mới bắt
đầu học Phật, khi học Phật duyên phận
cũng vẫn là khá lắm. Một đồng tu tặng
cho bà ta một bộ kinh Vô Lượng Thọ, nên biết
đấy là bộ tôi giảng năm 1999 tại Tân Gia Ba,
sáu mươi giờ, tôi giảng một tháng, mỗi ngày
hai tiếng. Khi ấy, chỉ dùng băng cassette để
thâu. Sau này, làm thành đĩa từ, tức CD, không có h́nh ảnh.
Bà ta kể với tôi, bà ta học bộ kinh ấy, niệm
một câu A Di Đà Phật, mười năm giống
như một ngày. Mỗi ngày nghe kinh mười tiếng,
nghe như thế nào? Nghe một đĩa, tức là nghe
băng giảng một giờ, nghe một đĩa suốt
mười lần. Dẫu công việc bận rộn
cũng nghe tối thiểu bốn lần, không hề ít
hơn bốn lần, thông thường thời gian mỗi
ngày đều là mười biến. Tâm tín nguyện của
bà ta do đấy phát khởi, tín, giải, hành, chứng bà
ta đều làm được. Những nghĩa lư trong
kinh biến thành tư tưởng của chính ḿnh, những
răn dạy trong kinh biến thành hành vi của chính ḿnh.
Năm nay bà ta sáu mươi lăm tuổi, [làm như thế
suốt] mười năm. Quư vị thỉnh bà ta giảng
kinh Vô Lượng Thọ, bà ta chẳng cần dùng đến
cuốn kinh, mà giảng rành rẽ, mỗi ngày giảng tám
tiếng hay mười tiếng chẳng hề mệt nhọc.
Trước
kia, chúng tôi không biết đến người này. Năm
ngoái, tôi chữa răng tại Đài Loan, có một đồng
tu gởi cho tôi một CD, đó là phim tài liệu do ngành truyền
thông quay, dài nửa tiếng, tức là CD về bà Lưu Tố
Vân. Người ta đi săn tin, chứ không phải
đến phỏng vấn bà ta, đến chỗ bà ta,
nghe nói có một người như thế, bị mắc
chứng Hồng Ban Lang Sang (Systemic Lupus Erythematosus) vô cùng nghiêm trọng, v́ sao
niệm Phật được lành bệnh, họ cảm
thấy rất lạ lùng, bèn đến phỏng vấn bà
ta, phỏng vấn nửa tiếng. Tôi xem CD ấy, cảm
thấy rất kinh ngạc, và cũng vô cùng bội phục,
bà ta dụng công vô cùng đúng phương pháp. Học Phật
thật sự nhập cảnh giới, chẳng bận tâm
đến căn bệnh, mỗi người đều
lo lắng thay cho bà ta, c̣n bà ta ngày nào cũng vui sướng,
mỗi ngày nghe kinh, niệm Phật chẳng gián đoạn.
Bác sĩ bảo bà ta: “Bệnh ấy chẳng có cách nào trị”.
Được rồi! Không có cách th́ khỏi cần trị,
về nhà niệm Phật, niệm đến mức lành bệnh.
Bác sĩ bảo bà ta, dẫu lành bệnh, dấu sẹo
trên mặt chắc chắn chẳng thể mất đi. Kết
quả là bác sĩ gặp mặt bà ta, chẳng có dấu sẹo
nào hết, bèn hỏi: “Bà bôi thuốc ǵ mà ngay cả dấu
sẹo cũng chẳng có?” Bà ta đáp: “Chẳng bôi ǵ hết,
thứ ǵ cũng chẳng bôi”. Bà ta kể, lúc kết hôn có mua
hai lọ Tuyết Hoa Cao để bôi chân, chứ chưa hề
bôi lên mặt. Bà ta nói niệm Phật được lành bệnh,
bác sĩ tin tưởng. V́ sao tin tưởng? Người
này cả đời chẳng vọng ngữ, thật sự
khó có! Suốt đời chẳng nói dối! C̣n một
ưu điểm nữa là cả đời chẳng có tâm
ham danh lợi, người ta luôn tranh danh đoạt lợi,
c̣n bà vô cùng coi nhẹ danh lợi. V́ thế, tôi cảm thấy
bà ta trong quá khứ là một người tu hành, có thiện
căn sâu dầy dường ấy! Bà ta thị hiện
phương pháp cho chúng ta, mười năm bèn thành công,
thành công nơi một bộ kinh Vô Lượng Thọ, học
tập bất luận kinh điển nào cũng chẳng
có tí ti khó khăn nào! Đúng như Phật pháp đă nói: “Một kinh thông, hết thảy
các kinh thông”, đấy là một tấm gương tốt.
Từ tấm
gương này, chúng tôi biết: Sau này, Phật pháp sẽ rất
hưng vượng. V́ sao? Gương này được
đề ra, học tập kinh giáo chẳng khó! Chỉ cần
một bộ kinh, học kỹ càng suốt mười
năm, chẳng phải là sẽ thấu suốt ư? Nếu
quư vị muốn mọi người cùng học, chúng ta lập
một Phật học viện, thành lập một lớp
Phật học th́ cần phải có đại phước
báo. Bản thân chúng ta có phước báo, mà chúng sanh cũng
phải có phước báo. Chúng sanh không có phước báo sẽ
chẳng thể thành công! V́ thế, nhân duyên chẳng dễ
ǵ đạt được! Cả đời này, tôi mấy
lần bỏ lỡ duyên phận, chẳng biết làm sao
được, trong tâm tôi hiểu rất rơ, chẳng có
cách nào! Lần đầu tiên là duyên phận của tôi với
pháp sư Tinh Vân. Bốn mươi năm trước, Phật
Quang Sơn vừa mới thành lập, trên núi ấy chỉ
có một Phật học viện, tức Đông
Phương Phật Giáo Học Viện. Sư mời tôi
làm chủ nhiệm giáo vụ; khi ấy, học tṛ là một
trăm ba mươi người. Tôi có ư nghĩ chia một
trăm ba mươi người ấy thành nhiều tổ,
cứ ba người một tổ, tức là chia thành bốn
mươi tổ, mỗi tổ chuyên học một kinh.
Thâm nhập một môn, huân tu dài lâu. Bốn mươi tổ
là bốn mươi bộ kinh, học suốt mười
năm, chẳng thể nói là một trăm ba mươi
người đều thành tựu, nhưng một phần
ba, tức bốn mươi người, mỗi người
đều là chuyên gia của một bộ kinh. Quư vị
nói người học kinh Di Đà mười năm là ǵ?
A Di Đà Phật tái lai. Tiểu tổ ba người khác học
phẩm Phổ Môn suốt mười năm, họ là Quán
Thế Âm Bồ Tát tái lai. Chọn ra mười bộ kinh,
nếu chúng ta cả đời chẳng rời khỏi Phật
Quang Sơn, bao nhiêu năm qua, có nhiều nhân tài hoằng
pháp như thế, có thể nói là tột đỉnh. Ai tu một
bộ kinh mười năm? Đều đứng đầu,
đúng là Phật quang chiếu khắp toàn cầu. Hết
sức đáng tiếc, pháp sư Tinh Vân không chấp nhận
đề nghị ấy. Sư bảo tôi: “Làm như vậy
không giống như trường học”. Khi ấy, tôi
thưa với Sư: - Trường học chưa chắc
đă tạo nên nhân tài, nhưng biện pháp cố hữu ấy
của Trung Quốc đă đào tạo nhân tài. V́ sao? Tôi học
trong hội của lăo cư sĩ Lư Bỉnh
Duyên phận
thứ hai là khi Hàn quán trưởng văng sanh. Trước khi
bà ta văng sanh, chúng tôi đă dự định mở một
lớp hướng dẫn hai ba chục đồng học
chuyên tu. Nào ngờ, sau khi bà ta mất, con cái bà ta chẳng có
hứng thú đối với chuyện ấy, chúng tôi
cũng cảm thấy chính ḿnh phước đức, nhân
duyên chẳng đủ. Lần thứ hai chúng tôi cũng thất
vọng.
Lần thứ
ba là tại Cư Sĩ Lâm của cư sĩ Lư Mộc
Nguyên ở Tân Gia Ba. Trước tiên, chúng tôi làm thí nghiệm,
mở lớp ngắn hạn
trong ba tháng. Lớp ấy dạy được năm lần,
rất có thành tích, chúng tôi trọn đủ ḷng tin, muốn
mở lớp Phật học dài hạn, từ ba năm
đến năm năm, nhưng lại có một người
phá hoại trong ấy, khiến cho chúng tôi chẳng thể không
rời khỏi Tân Gia Ba. Chúng tôi không thể trách móc bất
luận kẻ nào, đó là duyên phận trong Phật pháp.
Duyên phận Phật pháp đáng ở chỗ nào, chúng tôi
không biết, chúng tôi là phàm phu tục tử. Tới Úc, sang
năm, chúng tôi đến Úc được mười
năm, Tịnh Tông Học Viện thành lập mười
năm, hoàn cảnh tu học ổn định, nhưng
trong các đồng học, bất luận xuất gia hay tại
gia chẳng y giáo phụng hành, hiện thời có thể ép
họ được hay không? Chẳng thể! Trong thời
đại hiện tại, thời đại rộng lớn,
hoàn cảnh rộng lớn, dân chủ, tự do, rộng mở,
chúng ta chỉ có thể khuyên lơn, hướng dẫn, chẳng
thể đ̣i hỏi quá mức. Khuyên lơn, hướng dẫn
mọi người chuyên dốc công sức nơi một
môn, thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, khuyên mọi người
vun bồi ba hay bốn căn cội. Họ đă học
lung tung, chẳng học một thứ. Nếu học một
thứ, chắc chắn mười năm sẽ có thành
công, chẳng kém cư sĩ Lưu Tố Vân.
V́ thế,
Lưu cư sĩ đă nêu gương tốt nhất. Chỉ
cần thật sự học, có một bộ CD, hoặc một
bộ băng thâu âm, là được rồi! Thật sự
buông tiếng tăm, lợi dưỡng, buông hưởng
thụ ngũ dục lục trần xuống, chẳng sợ
chịu khổ, ai nấy đều thành tựu. Ưu
điểm của cư sĩ Lưu Tố Vân là có thể
chịu khổ, có thể tŕ giới, điều này kẻ
b́nh phàm chẳng dễ ǵ làm được, nhưng bà ta
làm được. Tôi nghe bà ta nói trong CD, bà ta có một
người bạn thân, mời người bạn thân ấy
dùng cơm, chỉ có một món ăn, giá xào với đậu
hũ sợi, một món thôi! Người bạn nói: “Mời
tôi đến để ăn món này sao?” Đúng vậy! Bà
ta hỏi: “Chẳng đủ ăn th́ tôi xào thêm một
chút nữa”. “Vẫn là món đó hả?” “Đúng vậy, vẫn
món đó”. Quư vị bèn hiểu b́nh thường người
ta ăn cơm chỉ có một món, đơn giản, chẳng
lăng phí thời gian, thời gian quư báu nhất! Chẳng thể
chịu khổ, không được rồi! Tŕ giới chịu
khổ, thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, đấy là bí
quyết thành công và hộ tŕ chánh pháp tồn tại lâu dài,
chúng ta chớ nên không lưu ư.
Chúng ta lại
coi tiếp đoạn dưới: “Nhi vi Thượng Thủ, kim xưng Thủ Tọa
vi Thượng Thủ” (“mà là Thượng
Thủ”: Hiện tại gọi vị Thủ Tọa là
Thượng Thủ). Trong Phật môn hiện thời,
Thủ Tọa Ḥa Thượng được gọi là
Thượng Thủ. “Các kinh
trung Thượng Thủ nhân số bất đồng, lệ
như Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ
Kinh ư đại Bật Sô nhất thiên nhị bách
ngũ thập nhân, liệt Xá Lợi Phất, Mục Kiền
Liên, Đại Ca Diếp, A Nê Luật Đà đẳng tứ
nhân đẳng vi Thượng Thủ. Kim kinh tắc Kiều
Trần Như ngũ nhân đẳng vi Thượng Thủ,
thị năi nhất thiết đại thánh, thần thông
dĩ đạt chi đại tôn giả trung chi Thượng
Thủ” (Trong các kinh, số lượng Thượng Thủ
khác nhau, chẳng hạn như Xưng Tán Tịnh Độ
Phật Nhiếp Thọ Kinh là một ngàn hai trăm năm
mươi vị Đại Bật Sô, kể tên bốn vị
Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,
và A Nê Luật Đà cùng làm Thượng Thủ; nay kinh này lấy
năm vị như Kiều Trần Như v.v... làm Thượng
Thủ, họ là Thượng Thủ
trong các đại tôn giả “hết thảy đại
thánh, thần thông đă đạt”). Đặc biệt
giới thiệu một chút. Xưng Tán Tịnh Độ
Phật Nhiếp Thọ Kinh là kinh A Di Đà do ngài Huyền
Trang đại sư phiên dịch. Bản dịch của
Cưu Ma La Thập đại sư có mười sáu vị
tôn giả, trong ấy có tên họ của mười sáu vị,
bản dịch của Huyền Trang đại sư chỉ
kể tên bốn vị. Đây là do người phiên dịch,
chúng ta biết Cưu Ma La Thập và Huyền Trang phải dịch
từ cùng một nguyên bản, ư nghĩa trong hai bản dịch
ấy đại đồng tiểu dị. Những vị
này là Thượng Thủ của Thanh Văn chúng, trong Thanh
Văn chúng các Ngài đều là Đại A La Hán. Chữ
Đại trong “đại tỳ-kheo, đại A La Hán”
là mấu chốt, Đại là ǵ? Đại Thừa. Tiểu
Thừa A La Hán là Tiểu Thừa Tứ Quả, Đại
Thừa A La Hán là Pháp Vân Địa Bồ Tát. V́ A La Hán dịch
sang nghĩa tiếng Hán là Vô Học, Ngài đă học xong những
khóa tŕnh (lớp học, môn học) cần phải học,
tốt nghiệp rồi! Vô Học trong Tiểu Thừa gọi
là A La Hán; Vô Học trong Đại Thừa cũng gọi
là A La Hán. A Lan Hán có nghĩa là Vô Học, nhưng Vô Học
trong Đại Thừa là Thập Địa Bồ Tát, tức
Pháp Vân Địa Bồ Tát, được gọi là Đại
A La Hán. Do kinh này là kinh Đại Thừa, quư vị thấy
chữ Đại A La Hán có ư nghĩa khác biệt.
Chúng ta xem
tiếp đoạn kế đó: “Án ‘nhất thiết đại thánh, thần thông
dĩ đạt’ chi cú” (xét ra, câu “hết
thảy đại thánh thần thông đă đạt”),
câu này, “bổn vị Bồ Tát
thán đức” (vốn để ca ngợi đức
hạnh của Bồ Tát), hai câu này vốn là để tán
thán Bồ Tát. “Như Mật
Tích Kim Cang Lực Sĩ Kinh vân: - Dữ đại tỳ-kheo
chúng tứ vạn nhị thiên câu, Bồ Tát bát vạn tứ
thiên, nhất thiết đại thánh, thần thông dĩ
đạt” (như kinh Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ[9] chép: “Cùng với bốn vạn
hai ngàn đại tỳ-kheo, tám vạn bốn ngàn Bồ
Tát, hết thảy đại thánh thần thông đă đạt”).
Đây là tham khảo lời Phật dạy trong kinh khác. “Kim thử kinh trung, dĩ tán thán
Bồ Tát công đức chi ngữ, dĩ tán Thanh Văn”
(Nay trong kinh này, dùng lời tán thán công đức của Bồ
Tát để tán thán Thanh Văn). Câu tiếp đó là khẩn
yếu, “chánh biểu thử
đẳng thường tùy thánh chúng, bổn Pháp Thân đại
sĩ, ẩn Bổn thùy Tích” (chính là nhằm biểu thị
các vị thánh chúng thường theo hầu
Phật vốn là Pháp Thân Đại Sĩ, ẩn Bổn thùy
Tích). Những vị này là ai? Cổ nhân Trung Quốc
đă nói rất hay: “Một vị
Phật ra đời, ngàn vị Phật ủng hộ”.
Giống như đóng tuồng, người này đóng vai
chính, người khác đóng vai phụ; chẳng có những
vai phụ diễn, tuồng sẽ hát không hay. Duyên của Thích
Ca Mâu Ni Phật chín muồi, Ngài đến thế gian này thị
hiện thành Phật, đóng vai chánh, những vai phụ diễn
th́ sao? Vai phụ diễn có thể là thầy Ngài, hoặc
có thể là giống như Ngài, đều đă thành Phật,
đó gọi là “cổ Phật tái lai”, thật đấy!
Trong giáo pháp Đại Thừa, đức Phật đă
nói rơ: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên đă thành Phật
từ kiếp lâu xa, đến tham gia pháp hội của
Thích Ca Mâu Ni Phật, đến nơi đây gặp dịp
đóng một vai, làm học tṛ của Thích Ca Mâu Ni Phật,
các Ngài thật sự là đại thánh, cũng chẳng phải
là tiểu thánh, giống như các vị Đẳng Giác Bồ
Tát hoặc Thập Địa Bồ Tát rất nhiều!
Do vậy, trong hội
này, há thật sự có phàm phu? C̣n có những vị hộ
pháp thời đức Phật tại thế, những vị
tại gia cư sĩ, [trong số ấy] cũng có rất
nhiều chư Phật, Bồ Tát tái lai. Hoằng pháp lẫn
hộ pháp đều là hạng nội hạnh, chẳng phải
là bậc nội hạnh sẽ không được! Do vậy,
chúng ta có thể hiểu, cư dân sống tại Ấn
Độ thuở ấy phước báo to lớn, cảm
chư Phật, Bồ Tát giáng lâm, v́ chúng sanh tuyên nói diệu
pháp. Đặc biệt là pháp môn này tiếp dẫn đại
chúng, thành tựu viên măn trong một đời, đến
đâu để t́m pháp môn này? Bởi thế, những vị
Pháp Thân đại sĩ này, như kinh Hoa Nghiêm đă nói, bốn
mươi mốt địa vị Pháp Thân đại
sĩ, ẩn Bổn, tức là ẩn giấu quả vị
sẵn có của chính ḿnh, “thùy
tích” là biểu diễn, sắm một vai trên sân khấu,
[đó là] ẩn Bổn thùy Tích. “Hoặc
tha phương thánh chúng, trợ Phật hoằng hóa, vi Ảnh
Hưởng Chúng” (hoặc thánh chúng từ phương
khác, giúp Phật hoằng hóa, đóng vai tṛ làm những
người gây ảnh hưởng). Cũng có những vị
Phật từ thế giới phương khác, thấy
Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện thành Phật tại nơi
đây, cũng đến góp sức vào cuộc vui, đến
sắm một vai diễn. Sắm vai ǵ không nhất định,
có vị sắm vai tỳ-kheo xuất gia, có vị sắm
vai tại gia Bồ Tát, chẳng nhất định,
đúng là nên dùng thân ǵ đắc độ, bèn hiện thân
ấy, đều nhằm giúp Thích Ca Mâu Ni Phật giáo hóa
chúng sanh, đấy gọi là Ảnh Hưởng Chúng.
“Nhất
thiết đại thánh, chỉ kỳ bổn địa,
bổn thị cứu cánh Bồ Đề chi nhân cố”
(Câu “hết
thảy đại thánh” chỉ Bổn Địa của họ:
Vốn là bậc Bồ Đề rốt ráo). Rốt ráo Bồ
Đề là người đă chứng đắc địa
vị Diệu Giác. Trong kinh Hoa Nghiêm, đây là địa vị
Bồ Tát tối cao. Diệu Giác c̣n cao hơn Đẳng
Giác một cấp, đấy là rốt ráo Bồ Đề.
“Thần thông dĩ đạt
giả” (Thần thông đă đạt là...) đó là “thị quyền tích”, tức
là thần thông biến hóa, mang thân phận Thanh Văn trong hội
này. Quư vị thấy bốn vị trước đă chứng
đắc địa vị A La Hán, c̣n ngài A Nan là Sơ Quả
Tu Đà Hoàn, đấy là sắm những vai biểu diễn
khác nhau, “du hư thần thông lai thử
độ cố” (do du hư thần
thông mà đến cơi này). Các vị này đều có
duyên với chúng sanh trong thế giới Sa Bà, không có duyên sẽ
chẳng đến, đều là hữu duyên. V́ thế,
chúng sanh có cảm, toàn bộ các Ngài đều đến,
cùng theo Thích Ca Mâu Ni Phật đến đây. “Cố tri sở liệt chi Thanh
Văn chúng, giai thị đại quyền thị hiện,
trợ ngă Thế Tôn, khai hiển Tịnh Độ pháp môn
dă” (Do vậy, biết các hàng Thanh
Văn vừa được nêu trên đều là bậc
đại quyền thị hiện hỗ trợ đức
Thế Tôn ta khai hiển pháp môn Tịnh Độ). Nhất
định phải hiểu ư nghĩa này; v́ thế, đọc
kinh quư vị chớ nên không liễu giải sự quyền
biến thị hiện, chớ nên chẳng liễu giải
Ẩn và Hiện, tức Ẩn Bổn Hiện Tích, “thùy tích” là hiện ra h́nh
tướng, dấu vết.
“Tổng thượng ngũ
thánh” (Xét chung, năm vị thánh [nói
trên]), sau khi giới thiệu riêng từng vị xong,
bèn gộp chung lại để nói, chúng ta xem năm vị
[Thượng Thủ được nêu tên] trong phần
trước. “Liễu Bổn Tế”,
tức tôn giả Kiều Trần Như, “vị liễu tri kỳ cửu viễn chi bổn tế,
cố thủ liệt chi” (do biết
rơ Bổn Tế lâu xa nên được nêu tên đầu
tiên). Liễu là hiểu rơ, Bổn Tế là bổn
tánh, người Trung Quốc thường gọi Liễu
Bổn Tế là “đại triệt đại ngộ,
minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”. Kiến tánh là
chân Phật, chẳng phải là giả Phật. Người
kiến tánh thoát ly mười pháp giới. C̣n bị giới
hạn trong mười pháp giới là chưa giác ngộ,
chưa kiến tánh, kiến tánh bèn thoát ĺa. Người [kiến
tánh] vẫn ở lại trong mười pháp giới, nên gọi
là đại quyền thị hiện, giống như những
vị này, ẩn Bổn thùy Tích, là thật, chẳng giả.
Những
người minh tâm kiến tánh trong thuở Thích Ca Mâu Ni Phật
tại thế, cùng ở với chúng ta, chúng ta thấy họ
giống hệt như chúng ta, chẳng có ǵ khác biệt.
Khác nhau ở chỗ chúng ta là phàm phu mắt thịt thấy
Phật, Bồ Tát toàn là phàm phu mắt thịt, c̣n Phật,
Bồ Tát thấy chúng ta thảy đều là Phật, Bồ
Tát, mỗi người có cách nh́n khác nhau. V́ sao? Chư Phật,
Bồ Tát nh́n vào tự tánh của chúng ta, tự tánh của
quư vị là Phật. Chúng ta nh́n Phật, Bồ Tát, chẳng
thấy tánh, chỉ thấy tướng của các Ngài, chấp
tướng, cho nên các Ngài chẳng giống bọn phàm phu
chúng ta. Mỗi ngày ăn cơm, đi ra ngoài khất thực,
người ta cho ǵ ăn nấy, chúng ta thấy như vậy,
không có cách nào lư giải họ. Họ ra ngoài xin được
một bát cơm, cơm ấy chẳng dễ ăn cho lắm.
Có thể là kẻ ăn mày ra ngoài xin một chút đồ
ăn. Trong kinh A Hàm thường nói cơm ấy như thế
nào? Thiu rồi, hư rồi, bốc mùi. Kẻ ăn xin rất
đáng thương, xin được một chút đồ,
gặp Phật, Phật có phước báo, bèn lấy bát
cơm ấy cúng dường Phật để tu phước.
Đức Phật cũng rất vui vẻ, ăn ngay
trước mặt người ấy, chúc phước cho
kẻ ấy. Cơm ấy kẻ b́nh phàm chẳng thể
nuốt trôi, nhưng Phật có thể ăn. Phật ăn
vào mùi vị ra sao? Thiên trù diệu cúng (đồ cúng dường
mầu nhiệm từ bếp cơi trời). V́ sao? Cảnh
chuyển theo tâm. Tâm người ăn mày ô nhiễm, nên
cơm dơ bẩn. Khi dâng lên Phật, Phật là thân tâm
thanh tịnh, thứ ấy liền biến thành thứ tốt
đẹp nhất, thật đấy, chẳng giả
đâu! Thần thông diệu dụng mà! Chúng ta thấy đức
Phật ngồi dưới cội Bồ Đề, dưới
gốc cây lót cỏ, tĩnh tọa nơi ấy. Bồ Tát
chẳng thấy như vậy, mà sẽ thấy phía trên có
lọng báu, phía dưới là ṭa báu Kim Cang. Thân tướng
đức Phật chẳng phải là ba mươi hai
tướng, mà là thân có vô lượng tướng, mỗi
tướng có vô lượng hảo, các Ngài thấy như
vậy. Cảnh chuyển theo tâm, tướng do tâm sanh,
chúng ta xem nhiều kinh luận, sẽ dần dần thấu
hiểu chuyện ấy là thật, chẳng giả. V́ thế,
tôn giả Kiều Trần Như tượng trưng minh
tâm kiến tánh. Trong kinh này, điều đó có nghĩa là
kinh này là kinh điển để minh tâm kiến tánh trong một
đời. Trong đời này, quả thật chúng ta
chưa minh tâm kiến tánh, nhưng văng sanh thế giới Cực
Lạc sẽ minh tâm kiến tánh. Tổ sư đại
đức đă nói: “Đản
đắc kiến Di Đà, hà sầu bất khai ngộ?”
(Chỉ cần thấy Di Đà, lo chi chẳng khai ngộ),
lẽ đâu chẳng khai ngộ? Kể tên Ngài đầu
tiên nhằm làm cho chúng ta phát khởi ḷng tin, tức là ḷng
tin đối với Tịnh Tông, sanh khởi nguyện tâm.
“Thân Tử trí huệ đệ
nhất”, Thân Tử là Xá Lợi Phất, “biểu Di Đà chi Phật trí, bất tư nghị
trí, bất khả xưng trí, Đại Thừa quảng
trí, vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí chi
thâm quảng vô nhai” (biểu thị
Phật trí, trí chẳng nghĩ bàn, trí chẳng thể nói,
trí Đại thừa rộng lớn, trí thù thắng tối thượng
không ǵ bằng, không chi sánh, sâu rộng không bờ bến của
Phật Di Đà), tượng trưng điều ǵ?
Tượng trưng trí huệ Bát Nhă viên măn vốn sẵn
có trong tự tánh. Ở nơi đâu? Trong bộ kinh này! Nếu
chúng ta muốn khai phát trí huệ Bát Nhă sẵn có trong tự
tánh của chính ḿnh th́ kinh này là một phương pháp. Trí
huệ ấy đúng như đức Thế Tôn đă nói
trong kinh Hoa Nghiêm: “Hết thảy
chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của
Như Lai”. Năm thứ trí được nói đến
ở đây chính là trí huệ vốn sẵn có của
Như Lai, nói Như Lai là nói tới tự tánh của chúng
ta. Trong tự tánh của chúng ta vốn có năm thứ trí
huệ viên măn ấy. Năm thứ trí huệ được
dành lại để giảng trong phần sau, nên ở
đây chẳng chú giải, trong phần sau sẽ có.
“Mục
Liên chi thần thông đệ nhất, hiển du hư thần
thông chi thệ nguyện” (Mục Liên thần thông bậc
nhất, hiển thị thệ nguyện du hư thần
thông). Trong lúc tu nhân, Bồ Tát đă phát nguyện “chúng sanh vô biên thệ nguyện
độ”, muốn độ chúng sanh, nhưng quư vị
chẳng có năng lực, sẽ không thể độ
được. Vừa có trí huệ vừa có năng lực,
ở đây năng lực được biểu hiện
ra chính là thần thông. Thần là chẳng có chướng ngại,
kinh Hoa Nghiêm giảng bốn thứ vô ngại, Lư vô ngại,
Sự vô ngại, Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại.
Đó là thần thông, Thông là thông đạt. Nói gộp lại,
pháp giới chẳng chướng ngại, quư vị mới
có thể phổ độ chúng sanh, mới có thể thực
hiện Tứ Hoằng Thệ Nguyện đă phát trong lúc
tu nhân. Trong lục đạo, trong mười pháp giới,
nên dùng thân ǵ đắc độ, quư vị có thể hiện
thân ấy, hiện thân vô ngại. Nên dùng phương pháp ǵ
để giúp người ấy giác ngộ, bèn dùng
phương pháp đó. Thân chẳng phải là thân nhất
định, pháp cũng chẳng có định pháp (pháp nhất
định), sống động, hoạt bát; như kinh
Lăng Nghiêm đă nói: Bồ Tát hiện thân, “tùy chúng sanh
tâm, ứng sở tri lượng” (thuận theo tâm chúng
sanh, ứng với khả năng tiếp nhận của họ).
Chính Ngài không có thân, chúng sanh thích thân ǵ Ngài bèn hiện thân ấy.
Chúng sanh mong Phật đến độ họ, hoặc là
Bồ Tát đến độ họ, bèn thuận theo ḷng
quư vị mong muốn mà hiện thân. Quư vị hoan hỷ sẽ
dễ đắc độ, chẳng hoan hỷ sẽ khó
khăn!
“Đại Ẩm Quang”, đây
là tôn giả Ca Diếp, tức ngài Đại Ca Diếp, “hiển Di Đà thù thắng quang
minh, vô bất chiếu kiến, quang trung cực tôn, Phật
trung chi vương” (Đại Ẩm Quang hiển thị
quang minh thù thắng của Phật Di Đà không ǵ chẳng chiếu
tỏ, là tôn quư nhất trong các quang minh, là vua của các
đức Phật). Hai câu này là lời đức Thế
Tôn tán thán A Di Đà Phật đến tột bậc. Chúng
ta biết, Phật Phật b́nh đẳng, trong pháp b́nh
đẳng, đức Thế Tôn vẫn tán thán A Di Đà
Phật như vậy, “quang
trung cực tôn, Phật trung chi vương”. Ngài Đại
Ẩm Quang trong quá khứ, chín mươi mốt kiếp
trước, dùng vàng ṛng cúng dường Phật, thếp
vàng tượng Phật, nên cảm chín mươi mốt
kiếp quang minh kim sắc, mang ư nghĩa này, hiển thị
quang minh thù thắng của A Di Đà Phật.
“Hựu Ca Diếp thị Tông Môn
Sơ Tổ, A
Khi pháp vận
của Thích Ca Mâu Ni Phật kết thúc, tức là một vạn
hai ngàn năm sau, nói thật ra, thời gian trọn chẳng
dài. Một vạn hai ngàn năm Phật pháp bèn kết thúc,
chẳng c̣n nữa! Vị Phật kế tiếp, tức vị
Phật thứ năm, [chính là] Di Lặc Bồ Tát đến
thành Phật trong thế gian này, khi nào Ngài sẽ giáng hạ?
Trong bản chú giải này, cụ Niệm Tổ cũng [cho
biết]: Năm mươi bảy ức sáu ngàn vạn
năm sau, Di Lặc Bồ Tát mới đến thành Phật
trong thế gian này. Bởi vậy, hiện thời có kẻ
nói Di Lặc Bồ Tát đă chưởng quản thiên bàn,
đó là nói dối, chẳng thật, chẳng có lẽ ấy!
Cách tính toán thời gian như thế nào? Tính theo [thời
gian trên] cơi trời Đâu Suất. Một ngày trên trời
Đâu Suất bằng bốn trăm năm trong nhân gian, thời
gian sai biệt rất lớn, một ngày trên trời
Đâu Suất bằng bốn trăm năm trong nhân gian! Một
năm [trên cơi trời ấy] cũng giống như chúng
ta, v́ họ tính theo độ số của một ṿng tṛn
là ba trăm sáu mươi độ, nên một năm là ba
trăm sáu mươi ngày. Họ có thọ mạng dài bao
lâu? Bốn ngàn năm. [Tuổi thọ] trên cơi trời
Đâu Suất là bốn ngàn năm. Quư vị hăy tính toán từ
từ, sẽ tính ra thời gian khớp với thế gian
này là năm mươi bảy ức sáu ngàn vạn năm,
khi ấy, Ngài sẽ giáng thế. Trong thời gian rất
dài ấy, chẳng có Phật pháp. Không có Phật pháp, con
người rất khổ. V́ thế,
đức Phật từ bi đến tột bậc, không
có Phật th́ kiếm người thay mặt Phật. Có
người thay mặt đức Phật, người
thay mặt đức Phật là ai? Người thay mặt
đức Phật là Đại Nguyện Địa Tạng
Vương Bồ Tát. Thời gian Địa Tạng
Vương Bồ Tát độ chúng sanh c̣n dài hơn Phật.
Thích Ca Mâu Ni Phật độ chúng sanh mới là một
vạn hai ngàn năm. Quư vị thấy Địa Tạng
Vương độ chúng sanh phải trải qua thời
gian bao lâu? Phàm khi Phật chẳng xuất thế, thảy
đều do Địa Tạng Bồ Tát thay mặt. V́ thế,
quư vị thấy mở đầu kinh Địa Tạng
thật sự náo nhiệt, kinh này chẳng sánh bằng, kinh
Hoa Nghiêm cũng chẳng sánh bằng. Mười
phương hết thảy chư Phật đều tới
tham gia pháp hội. V́ sao? Trong quá khứ, mười
phương chư Phật đều là học tṛ của
Địa Tạng Bồ Tát. Học tṛ chẳng quên ân thầy,
ngày hôm nay thầy mở pháp hội, lẽ nào tṛ chẳng
đến? Đă thành Phật cũng phải đến
để trang nghiêm đạo tràng. V́ vậy, pháp hội
Địa Tạng trang nghiêm thù thắng khôn sánh.
“Cố tri nhất bộ đại
kinh, chánh thị phó pháp truyền tâm” (V́
vậy, biết một bộ Đại kinh đúng là phó pháp,
truyền tâm), bốn chữ ấy (phó pháp truyền
tâm) trọng yếu! Ngày nay chúng ta tiếp nhận bản
kinh này, chẳng khác nào Thích Ca Mâu Ni Phật đem vô thượng
diệu pháp truyền cho quư vị. “Phó pháp” là A
“Ư thử tiến đắc,
thỉ xưng đới giác chi hổ” (Lănh hội được điều này th́
mới đáng xưng là “hổ mọc thêm sừng”),
phải hiểu đây là một thứ phương tiện
thiện xảo để tổ sư tiếp dẫn
người học Thiền Tông. V́ sao tổ sư nói
như vậy? Dường như do Vĩnh Minh Diên Thọ
đại sư nói, đúng rồi, Ngài nói trong Tứ Liệu
Giản. Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư đại
triệt đại ngộ trong Thiền Tông, quay trở lại
chuyên tu Tịnh Độ, chuyên niệm A Di Đà Phật,
Ngài là tổ sư đời thứ sáu của Tịnh
Độ Tông, tức Tịnh Tông Lục Tổ, là A Di
Đà Phật tái lai. Quư vị thấy thuở ấy, phong
thái Thiền vô cùng hưng thịnh, coi rẻ tu Tịnh
Độ, Ngài đến biểu diễn, trước hết
là tu Thiền, đại triệt đại ngộ nơi
Thiền rồi tu Tịnh, nhằm bảo với người
khác ư nghĩa ǵ? Tịnh c̣n thù thắng hơn Thiền, làm
sao có thể khinh mạn cho được? V́ thế, Ngài
khuyên những kẻ tu Thiền, “có
Thiền, có Tịnh Độ, giống như cọp thêm sừng”.
Quư vị tu Thiền, lại c̣n thêm Tịnh, tuyệt lắm!
Vốn là cọp mà cọp lại mọc sừng. Khuyên
người học Thiền, biết kẻ ấy chẳng
phải là căn tánh Thiền Tông, mê nơi Thiền, chẳng
thể khai ngộ, mà cũng chẳng đắc Định,
dùng phương pháp ấy để dẫn dắt, tiếp
dẫn kẻ ấy. Quư vị bảo kẻ ấy trực
tiếp bỏ Thiền tu Tịnh, hắn sẽ chẳng
cam ḷng, chẳng vâng chịu, chẳng thể tiếp nhận,
nên dùng phương tiện thiện xảo như thế
để khuyên chỉ hắn. Lại c̣n đích thân nêu
gương. “Ư thử tiến
đắc” (lănh hội điều này), giống như
thiền sư Trung Phong, quư vị thấy thiền sư
Trung Phong v́ người đời sau soạn một bản
nghi thức Tam Thời Hệ Niệm, tác phẩm ấy do
chính Ngài biên soạn. Trong ấy, có một câu trọng yếu:
“A Di Đà Phật tức thị
ngă tâm, ngă tâm tức thị A Di Đà Phật, Tịnh Độ
tức thử phương, thử phương tức Tịnh
Độ” (A Di Đà Phật chính là tâm ta, tâm ta chính là A
Di Đà Phật. Tịnh Độ chính là phương này,
phương này chính là Tịnh Độ). Hễ mê, quư vị
thấy có sanh, có diệt. Sau khi ngộ, sẽ là bất
sanh bất diệt. Do mê hay ngộ nên [cảm nhận] cảnh
giới sai khác, chứ cảnh giới chẳng có mê hay ngộ,
mê hay ngộ là do tự tâm của chúng ta. Sự thật là
chẳng có sanh diệt.
V́ thế,
các vị tổ sư đại đức khuyên dạy
chúng ta, “đản
đương mạch trực niệm khứ, tiện thị
vô thượng thâm Thiền” (chỉ
nên thẳng thừng mà niệm sẽ là vô thượng thâm
Thiền). Câu “vô thượng
thâm Thiền” là do chính Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói, nhất
tâm tŕ danh, tức là niệm một câu A Di Đà Phật,
chính là vô thượng thâm diệu Thiền, h́nh như câu
này được chép trong kinh Đại Tập. “Vô luận định tŕ, tán niệm,
quyết định công bất đường quyên” (Chẳng nệ định tŕ hay tán niệm,
quyết định chẳng phí uổng công lao). “Định tŕ” là định
khóa (ấn định thời hạn, giờ khắc nhất
định), “tán niệm” là
chẳng thuộc về định khóa, hễ có dịp
bèn niệm Phật. Tán niệm chẳng phải là tâm tán loạn.
Tâm tán loạn niệm Phật chẳng được, phải
nhất tâm, phải dùng cái tâm cung kính để niệm Phật.
“Tán” có nghĩa là chẳng
thuộc vào lúc thực hiện định khóa, định
khóa của chúng ta là khóa tụng sáng tối. Nhằm lúc chẳng
phải là định khóa, trong hết thảy thời, hết
thảy chỗ, Phật hiệu chẳng gián đoạn
th́ gọi là “tán niệm”, chắc
chắn chẳng phí uổng công phu định lực. Những
lời này đều do lăo cư sĩ đă trích lược
từ kinh văn và ngữ lục của tổ sư đại
đức, đúng là chẳng giả tí nào!
“Bổn kinh tiên liệt Thanh
Văn, hậu chương Bồ Tát” (Kinh này trước nêu Thanh Văn, sau kể Bồ
Tát). “Chương” (彰) là nêu rơ, trước hết, nêu bày chúng
Thanh Văn, sau đó là Bồ Tát chúng. “Chánh như Phật Địa Luận đệ nhị”
(đúng như trong quyển hai của Phật Địa
Luận), điều này được nói trong quyển thứ
hai [của bộ luận ấy]: “Tiên thuyết Thanh Văn, hậu thuyết Bồ Tát.
Thanh Văn chúng giả, cận đối Thế Tôn, thân thọ
hóa cố. Hựu chư Thanh Văn, thường tùy Phật
cố, h́nh đồng Phật cố. Thị cố chư
kinh đa thị tiên Thanh Văn, nhi hậu Bồ Tát” (Trước nói Thanh
Văn, sau nêu Bồ Tát. Chúng Thanh Văn gần gũi Thế
Tôn v́ được đức Phật đích thân giáo hóa.
Hơn nữa, các Thanh Văn do thường theo đức Phật
nên h́nh tướng giống với đức Phật. V́ vậy, phần nhiều các kinh thường
nêu Thanh Văn rồi mới nói đến Bồ Tát).
Đây là nói về sự biểu thị pháp của đại
chúng, tŕnh bày đơn giản về sự sắp xếp
theo thứ tự thuận của các Ngài. Thanh Văn là học
tṛ chưa khai ngộ, tuy đắc Định, A La Hán là
đắc Định, Cửu Thứ Đệ Định
chứng quả A La Hán, nhưng chưa đại triệt
đại ngộ, chưa minh tâm kiến tánh, chúng ta biết
các Ngài chỉ đoạn Kiến Tư phiền năo. Trong
kinh Đại Thừa thường nói đến tam giới
trong lục đạo, tam giới là Dục Giới, Sắc
Giới, Vô Sắc Giới, đoạn tám mươi tám phẩm
Kiến Hoặc, chứng Tiểu Thừa Sơ Quả Tu
Đà Hoàn. Nếu đem Tư Hoặc, Tư Hoặc gồm
tám mươi mốt phẩm, chia ra phối hợp với
chín địa, mỗi địa gồm chín phẩm th́
chín lần chín thành tám mươi mốt phẩm Tư Hoặc.
Đoạn hết Tư Hoặc, Tư Hoặc là tham, sân,
si, mạn, nghi, gồm năm loại lớn ấy. V́ thế,
Nghi là phiền năo rất nghiêm trọng, hoài nghi đấy!
Đối với ǵ mà nói [là nghi]? Đối với thánh
giáo mà nói, quư vị hoài nghi Thích Ca Mâu Ni Phật, hoài nghi kinh
điển nhà Phật, hoài nghi giáo huấn của đức
Phật. C̣n có một thứ nữa là hoài nghi chính ḿnh, bản
thân ta tạo tác tội nghiệp quá nặng, ta có thể
thành tựu trong một đời này hay không? Niệm ấy
thuộc về nghi, đó là phiền năo rất nghiêm trọng.
Đoạn
hết tham, sân, si, mạn, nghi, tám mươi tám phẩm
trong tam giới thảy đều đoạn hết, lục
đạo sẽ chẳng c̣n. Lục đạo là giả,
chẳng thật. Lục đạo giống như nằm
mộng, quư vị đoạn được nó là tỉnh
mộng. Vĩnh Gia đại sư nói rất hay: “Mộng lư minh minh hữu lục
thú, giác hậu không không vô đại thiên” (trong mộng
rành rành phô sáu nẻo, giác rồi ba cơi rỗng toang hoang), tỉnh
rồi. Tỉnh giấc là cảnh giới ǵ? Là tứ thánh
pháp giới, vẫn c̣n ở trong mộng. Bởi lẽ, lục
đạo là mộng trong mộng, sau khi ra khỏi lục
đạo, từ trong mộng tỉnh giấc, vẫn thuộc
về giấc mộng này. Vẫn phải đoạn nữa,
số lượng [phiền năo] cũng rất nhiều,
kinh Hoa Nghiêm gọi chúng là “phân biệt”, phân biệt nhẹ
hơn chấp trước, nhưng rất khó đoạn,
v́ sao? Quá nhiều! Quư vị thấy ư niệm phân biệt,
niệm trước diệt, niệm sau liền sanh. Phân biệt
được gọi là Trần Sa phiền năo. Trần Sa
là tỷ dụ rất nhiều, khởi tâm động niệm
đều phân biệt. Đoạn phân biệt phiền năo
th́ là Bồ Tát. Do vậy, trong tứ thánh pháp giới, chúng
ta biết, Thanh Văn đoạn Kiến Tư, vẫn có
tập khí Kiến Tư. Bích Chi Phật đoạn tập
khí Kiến Tư, có Trần Sa phiền năo. Đoạn Trần
Sa phiền năo, thành Bồ Tát, lại tiến cao hơn một
cấp, nhưng vẫn có tập khí Trần Sa. Tập khí
Trần Sa đoạn hết, sẽ thành Phật, tức
là Phật trong mười pháp giới, là vị trí cao nhất
trong mười pháp giới. Tuy thành Phật, hăy c̣n vô thỉ
vô minh phiền năo, tức là khởi tâm động niệm.
Phải đoạn hết vô minh phiền năo, chẳng khởi
tâm, không động niệm, khi ấy, thật sự tỉnh
giấc, tứ thánh pháp giới chẳng c̣n, mười
pháp giới không có. Do vậy, tứ thánh pháp giới
cũng chẳng phải là thật. Mười pháp giới
không có, xuất hiện cảnh giới ǵ? Nhất Chân pháp
giới. V́ sao gọi là Nhất Chân? Trong pháp giới ấy
không có biến hóa, trong mười pháp giới có biến
hóa, chứ pháp giới này không có biến hóa. V́ sao? Không có
phân biệt, chấp trước. Biến hóa do phân biệt,
chấp trước sanh ra, ngay cả thời gian và không
gian cũng đều có biến hóa. V́ thế, hễ vào
trong Nhất Chân pháp giới, thời gian lẫn không gian
đều không có. Thời gian không có, chẳng có trước
sau. Không gian không có, khoảng cách chẳng c̣n. Trọn khắp
pháp giới hư không giới là Nhất Chân pháp giới. Thế
giới Cực Lạc ở đâu? Ngay nơi đây. A Di
Đà Phật thành Phật khi nào? Ngay giây phút này! Thời
gian và không gian chẳng có, đó là thật sự thành Phật.
Thiên Thai
đại sư giảng: Phật trong mười pháp giới
gọi là Tương Tự Tức Phật, vượt
thoát mười pháp giới sẽ là thật, tức Phần
Chứng Tức Phật. V́ sao phần chứng? Chưa viên
măn. V́ sao chưa viên măn? Chẳng khởi tâm động niệm,
nên vô thỉ vô minh chẳng c̣n, nhưng tập khí vô thỉ
vô minh hăy c̣n. Tập khí ấy chẳng dễ đoạn,
không giống với những thứ trước đó.
Trước đó là tập khí Kiến Tư và tập khí
Trần Sa đều dễ đoạn, đều có
phương pháp đối trị, chỉ riêng vô thỉ vô
minh là không có phương pháp đối trị. Quư vị
chỉ có một phương pháp, nếu đối trị
nó sẽ ngay lập tức lọt vào vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước, toàn bộ đều có!
V́ vậy, khi đó, cổ đại đức nói là “vô
công dụng đạo”, để mặc nó, tuyệt đối
chẳng quan tâm tới nó, tuyệt đối
đừng khởi tâm động niệm, tự nhiên tập
khí ấy sẽ bị đào thải từ từ. Phải
mất thời gian bao lâu? Kinh nói ba đại
A-tăng-kỳ kiếp, chúng sẽ chẳng c̣n. Do vậy,
thành Phật phải mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp
là nói với ai? Chẳng phải là nói với kẻ phàm
nhân! Nói theo phía người phàm sẽ là vô lượng kiếp!
[Nói ba đại A-tăng-kỳ kiếp] là nói với Pháp
Thân Bồ Tát, tức Viên Giáo Sơ Trụ, ngày nào quư vị
minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ,
tính từ lúc ấy, sẽ phải trải qua ba A-tăng-kỳ
kiếp, tập khí vô thỉ vô minh sẽ tự nhiên chẳng
c̣n. Do vậy, trong Nhất Chân pháp giới, đức Phật
nói có bốn mươi mốt tầng cấp, Thập Trụ,
Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa,
Đẳng Giác, bốn mươi mốt giai cấp, bốn
mươi mốt giai cấp ấy do đâu mà có? Do tập
khí vô minh dầy hay mỏng, do vậy mà có! Không có cách nào có
thể đoạn tập khí vô minh. Hễ quư vị có một
cách, quư vị thấy đó, nhất định là quư vị
khởi phân biệt, khởi chấp trước, bèn đọa
lạc. V́ thế, ở đây, chẳng thể khởi tâm
động niệm. Trong cảnh giới ấy, quả thật
không khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt,
chẳng chấp trước. V́ thế, chúng ta phải liễu
giải, thế giới ấy là thế giới b́nh đẳng,
bốn mươi mốt địa vị là b́nh đẳng.
Không chỉ bốn mươi mốt địa vị b́nh
đẳng, ngay cả Phật quả rốt ráo, tức
địa vị Diệu Giác cũng b́nh đẳng, thật
sự b́nh đẳng.
Từ
kinh Hoa Nghiêm chúng ta thấy, Sơ Trụ Bồ Tát vừa mới
giác ngộ, đại triệt, đại ngộ, minh tâm
kiến tánh, có năng lực: Chúng sanh trong mười pháp
giới có cảm, Ngài có thể ứng. Nên dùng thân Phật
để đắc độ, Ngài bèn có thể hiện ba
mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp
giống như Thích Ca Mâu Ni Phật, có thể hiện thân
Phật. Nên dùng thân Bồ Tát đắc độ, có thể
hiện thân Bồ Tát. Thân nào cũng đều có thể hiện,
pháp ǵ cũng đều có thể giảng, chẳng có
chướng ngại, có khác ǵ với địa vị Diệu
Giác hay chăng? Đúng là chẳng sai biệt! Quư vị thấy:
Khởi tác dụng, tự hành, hóa tha chẳng bị chướng
ngại, chỉ có một chỗ khác biệt là chưa hoàn
toàn thoát khỏi tập khí. Do vậy có Nhất Chân pháp giới,
trong cảnh giới ấy, thân tướng quư vị
vĩnh hằng không thay đổi, cũng có nghĩa là chẳng
có sanh, lăo, bệnh, tử. Trong thế gian này, chúng ta có sanh,
lăo, bệnh, tử, có biến hóa! Trong thế giới ấy
chẳng có, cây cối, hoa, cỏ chẳng có Xuân sanh, Hạ
tăng trưởng, Thu gặt hái, chẳng có! Hoa vĩnh
viễn tươi tốt như vậy, vĩnh viễn
đẹp đẽ như vậy, vĩnh viễn thơm
tho như vậy. Núi, sông, đại địa, những
thứ ấy đều chẳng thay đổi, là vĩnh
hằng. V́ thế gọi là Nhất Chân, chẳng có biến
hóa. Do vậy, phải biết: Biến hóa là do cái tâm chúng
ta. Tâm chúng ta biến hóa, nên cảnh giới bên ngoài thảy
đều có biến hóa. V́ vậy, người nhập
Định, trong Định chẳng có biến hóa, cảnh
giới trong Định chẳng biến hóa. Do đó, trong
Định có thể thấy quá khứ, có thể thấy
vị lai. V́ quư vị chẳng có biến hóa, nên có thể
thấy cảnh giới bên ngoài biến hóa. Quư vị không có
thời gian và không gian, nên có thể đến quá khứ,
và cũng có thể đến tương lai. V́ thế,
Định phát sanh thần thông, đó là đức
năng, bản năng của quư vị bộc lộ.
Nhất
Chân pháp giới là thật ư? Thật ra, chẳng phải
là thật. Nhất Chân pháp giới cũng chẳng thật.
Nó là ǵ? Tập khí vô thỉ vô minh biến hiện, ngày nào
đoạn hết tập khí vô thỉ vô minh, cảnh giới
này sẽ chẳng thấy nữa! Sau khi không thấy th́ thứ
ǵ hiện tiền? Thường Tịch Quang hiện tiền,
Thường Tịch Quang là bổn tánh của chính ḿnh, hoàn
toàn trở về tự tánh. Trong Thường Tịch
Quang, quư vị chẳng thấy hiện tượng vật
chất, mà cũng chẳng thấy hiện tượng
tinh thần, một bầu quang minh. Do vậy, trong kinh có bốn
chữ để h́nh dung nó, tức là Đại Quang Minh Tạng,
đấy là Thường Tịch Quang. Huệ Năng
đại sư nói sáu câu là nói về cảnh giới nào? Cảnh
giới Thường Tịch Quang. Câu cuối cùng nói về
cảnh giới trong pháp giới hư không giới. Quư vị
thấy phần trước đă nói: Câu đầu tiên là “vốn tự thanh tịnh”,
chẳng nhiễm ô, tự tánh chẳng có nhiễm ô. Nay
chúng ta ở trong lục đạo, cho đến đọa
trong tam đồ, có nhiễm ô hay không? Không có! Tự tánh
vĩnh viễn chẳng bị nhiễm ô. Nhiễm ô là ǵ?
Nhiễm ô là A Lại Da, đặc biệt là Mạt Na, Mạt
Na gọi là “nhiễm ô ư”. Do tự tánh chẳng bị nhiễm
ô, tự tánh không có sanh diệt, “vốn
chẳng sanh diệt”, đấy mới là chính ḿnh, là
linh tánh của chính ḿnh, là bổn tánh của chính ḿnh, chớ
nên không biết điều này. “Vốn
tự trọn đủ”, câu này nói về Ẩn, nó trọn
đủ, nhưng chẳng hiển hiện. Trọn đủ
ǵ vậy? Trọn đủ hết thảy y báo và chánh báo
trang nghiêm trong pháp giới hư không giới, vốn tự
trọn đủ. “Vốn chẳng
dao động”, chưa từng lay động. Động
là khởi hiện tướng, không động bèn chẳng
hiện tướng.
Như vậy
th́ pháp giới do đâu mà có? Nhất niệm bất giác bèn
có vô minh. Vô minh là A Lại Da, [hay nói rơ hơn] vô minh là nghiệp
tướng của A Lại Da. Từ nghiệp tướng
biến hiện một chuyển tướng, từ chuyển
tướng biến hiện một cảnh giới tướng.
Chúng được gọi là ba tế tướng của
A Lại Da. Tốc độ chuyển biến quá nhanh, Di Lặc
Bồ Tát bảo là trong một cái khảy ngón tay có bao nhiêu
niệm? Bao nhiêu nghiệp tướng? Đối với
nghiệp, chư vị phải biết nghiệp là chấn
động, khoa học hiện tại gọi nó là chấn
động, tức là nó động. Đối với nhất
niệm của chúng ta, trong một cái khảy ngón tay có bao
nhiêu chấn động, tần suất ra sao? Ngài bảo chúng
ta, ba mươi hai ức trăm ngàn niệm, trăm ngàn là
đơn vị, trăm ngàn là mười vạn, ba
mươi hai ức nhân với mười vạn thành ba
trăm hai mươi triệu, quư vị thấy một cái
khảy ngón tay là ba trăm hai mươi triệu. “Niệm niệm thành h́nh”, “h́nh” là hiện tượng vật
chất, mỗi một niệm đều có một hiện
tượng vật chất. Trong một cái khảy ngón tay,
sẽ thấy một hiện tượng vật chất,
nó là ba trăm hai mươi triệu niệm, các h́nh tướng
ấy tích lũy tại nơi đó, các khoa học gia dùng
kính hiển vi trông thấy. Nếu quư vị nh́n trong một
giây, sẽ thấy nó tồn tại một giây rồi bỗng
nhiên không có, một giây tích lũy bao nhiêu? Tôi nghĩ khảy
nhanh, có thể khảy năm lần, khảy năm lần
là một ngàn sáu trăm triệu, quư vị thấy một
ngàn sáu trăm triệu lượt tích lũy, để cho
quư vị thấy hiện tượng ấy trong một
giây, sau một giây sẽ chẳng c̣n th́ các khoa học gia có
thể thấy được; chứ các khoa học gia chẳng
có cách nào thấy một phần trong một ngàn sáu trăm
triệu phần của một giây, họ chẳng nh́n thấy
điều ấy; nhưng thấy được [trong một
giây] là đă rất giỏi rồi, chúng tôi thật sự
rất bội phục. Trong một giây họ có thể thấy
chuyện này, biết trong Không sanh ra Có, sanh rồi liền
lập tức diệt, tốc độ quá nhanh chóng!
Chuyển
tướng là thông tin, khoa học gia gọi nó là thông tin.
Nghiệp tướng là năng lượng, dao động
là năng lượng; cảnh giới tướng là vật
chất. Do vậy, các khoa học gia, tức các khoa học
gia Lượng Tử, nói trong vũ trụ chỉ có ba thứ
ấy (năng lượng, thông tin và vật chất). Trừ
ba thứ ấy ra, thứ ǵ cũng đều không có. Trong
Phật pháp, quư vị thấy các vị đại sư
thuộc Pháp Tướng Duy Thức nói trong vũ trụ thứ
ǵ cũng đều chẳng có, chỉ có A Lại Da, đấy
cũng là ba tế tướng của A Lại Da, nên gọi
là Duy Thức. Chỉ có ḿnh Thức, ngoài Thức ra, toàn bộ
đều là giả. Giống như kính vạn hoa; kính vạn
hoa có ǵ? Có ba mảnh màu khác nhau. Chuyển động là
năng lượng, năng lượng đang chuyển
động. Nh́n từ chuyển động, quư vị thấy
có vô lượng vô biên kiểu mẫu kết cấu
(pattern) xuất hiện. Thật sự hiểu rơ th́ chúng
đâu có nhiều ngần ấy! Chẳng qua là ba mảnh
nhỏ màu sắc rực rỡ khác nhau mà thôi! Nay chúng ta thấy
y báo và chánh báo trang nghiêm trong cả vũ trụ, tức là
chúng đang động. Nếu chúng không động, sẽ
biến thành ba thứ (nghiệp tướng, chuyển
tướng, cảnh giới tướng). Khoa học
Lượng Tử đối với Phật pháp rất hữu
dụng. Dựa theo cách ghi chép năm tháng của Trung Quốc,
cho đến năm nay, Thích Ca Mâu Ni Phật đă diệt
độ ba ngàn năm, người Trung Quốc nói là ba
ngàn lẻ ba mươi bảy năm. Từ khi đức
Phật diệt độ cho đến hiện thời,
khoa học gia phát hiện A Lại Da, cho thấy Pháp Tướng
Tông nói chẳng sai tí nào! Ngày hôm nay đă hết thời gian
rồi, chúng ta học tập tới đây!
Tịnh
Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
Phần 45 hết
[1] Thục là tên gọi chung các loại đậu.
[2] Tỳ Lưu Ly (c̣n phiên âm là Duy Lâu Lặc)
là con trai thứ của vua Ba Tư Nặc (Prasenajit), em trai
thái tử Kỳ Đà (Jetakumāra),
và là vua nước Câu Tát La (Kosala). Sau khi vua A Xà Thế
(Ajatasatru) hại chết cha là Tần Bà Sa La (Bimbisara), bèn tấn
công Câu Tát La, chiếm vùng Kashi. Tỳ Lưu Ly thừa dịp
hạ bệ Ba Tư Nặc, khiến cha phải chết
trên đường lưu đày, trở thành vua nước
Câu Tát La rồi tấn công Ca Tỳ La Vệ, sát nhập
nước này vào Câu Tát La. Cuối cùng, nước Câu Tát La
cũng bị A Xà Thế sát nhập vào nước Ma Kiệt
Đà (Magadha). Theo kinh Tăng Nhất A Hàm, Tứ Phần Luật,
Nghĩa Túc Kinh và Duy Lâu Lặc Vương Kinh, nguyên nhân gần
khiến Tỳ Lưu Ly tàn sát ḍng họ Thích Ca là do vua Ba
Tư Nặc muốn cưới một công chúa ḍng họ
Thích Ca để tăng thêm thanh thế. Vợ của ngài
Ma Ha Nam (trưởng tộc ḍng Thích Ca khi ấy) chê ḍng dơi
Ba Tư Nặc chẳng xứng với ḍng họ thánh nhân
của ḿnh bèn đem một tỳ nữ (tức cô Nāgamundā) giả
danh là công chúa của ḍng họ Thích Ca gả cho Ba Tư Nặc,
cô này trở thành phu nhân Vāsavakhattiyā.
Lúc Tỳ Lưu Ly lên tám tuổi,
vua cha bảo về quê ngoại thăm viếng họ hàng,
đồng thời xin học bắn cung với ngài Ma Ha
[3] Hậu Tạng (Yü-Zang,
hoặc Ü-Tsang, c̣n gọi là Vệ Tạng), bao
gồm miền Tây và trung ương Tây Tạng hiện thời,
bao gồm lưu vực sông Tsangpo, các quận phía Tây núi
Kailash, và phần lớn đồng bằng Chang Tang. Thật
ra vùng này gồm hai vùng là Ü và
Tsang, thủ đô
[4] Hồ Biwa nằm ở phía
Đông Bắc thành phố Kyoto (Kinh Đô) rất to, có diện
tích đến 670 km2, đổ ra vịnh Osaka bằng sông
Seta. Người Nhật tin hồ này là trụ xứ của
Đại Biện Thiên trên mặt đất v́ hồ có
tên là Tỳ Bà vốn là một nhạc cụ yêu thích của
Đại Biện Thiên (Sarasvatī).
[5] “Bát La hoa”
là gọi tắt của chữ “Ưu
Bát La hoa” (Utpala), tức hoa sen.
[6] Bản bốn mươi quyển do
ngài Đàm Vô Sấm dịch vào đời Bắc
Lương. Khi bản này truyền đến phương
Nam, các vị như Huệ Nghiêm, Huệ Quán, Tạ Linh Vận
đă chiếu theo bản dịch mang tựa đề Nê
Hoàn Kinh của ngài Pháp Hiển để hội tập
thành bản gồm ba mươi sáu quyển. Do vậy, bản
này được gọi là Nam Bổn Niết Bàn Kinh, c̣n bản
dịch gốc của ngài Đàm Vô Sấm được
gọi là Bắc Bổn Niết Bàn Kinh.
[7] Hoàng Mai nay thuộc thành phố Hoàng
Cương, phía Đông tỉnh Hồ Bắc, thuộc vùng
giáp ranh của ba tỉnh Hồ Bắc, An Huy và Giang Tây.
[8] Nguyên văn “linh tê nhất điểm thông”,
dựa theo một câu thơ cổ của Lư Thương Ẩn:
“Thân vô thái phượng song phi
dực, tâm hữu linh tê nhất điểm thông” ư nói
tâm không đôi cánh như chim phượng để bay
lượn, nhưng tâm linh giống như sừng con tê
ngưu (tê giác), hễ có một điểm trắng bèn
thông suốt. Theo truyền thuyết, có một loại tê
ngưu tên là Thiên Tê, ḿnh có một vệt trắng kéo dài từ
đầu đến đuôi nên được coi là một
con vật thiêng, gọi là Linh Tê, chạm vào sừng nó, bất
cứ điểm trắng nào trên sừng cũng có thể
thông qua được phía bên kia sừng. Do đó sừng
Linh Tê cũng được dùng để chỉ sự
tương thông của đôi bên. Từ ngữ này về
sau mở rộng với ư nghĩa là đôi bên tâm
tương ứng chỉ cần nói một câu liền hiểu
nhau ngay, và thường được coi là từ ngữ
tương ứng của “tâm tâm tương ấn’.
[9] Đây là hội thứ ba, tức hội
Kim Cang Mật Tích trong kinh Đại Bảo Tích, kinh này do
ngài Bồ Đề Lưu Chí dịch.